G-71JYJ3V6DC

Bài thu hoạch Diễn án Dân sự lần 2 (Hồ sơ vụ án dân sự LS.DS06/DA2)

28 Tháng Bảy, 2025
admin
Please follow and like us:

Bài thu hoạch Diễn án: Dân sự lần 2 (Hồ sơ vụ án dân sự LS.DS06/DA2) Mã số: LS.DS06/B3.TH2 – DA2/DS)

HỒ SƠ DÂN SỰ 06 – TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT- TẢI HỒ SƠ   TẠI ĐÂY

I. TÓM TẮT NỘI DUNG TRANH CHẤP

Ông Chu Khắc Trường và vợ là bà Chu Thị Cúc có tạo lập được một mảnh đất tại thửa đất số 40, tờ bản đồ số 02 lập năm 1998 tại thôn 6, xã Phù Vân, huyện Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, với diện tích đất là 777m². Ông Chu Khắc Trường và bà Chu Thị Cúc có tất cả 4 người con là: Chu Thị Hồng Thanh (sinh năm 1931, tên thường gọi là Chu Thị Thanh); Chu Thị Loan (sinh năm 1934); Chu Khắc Sinh (sinh năm 1936); Chu Thị The (sinh năm 1944).

Năm 1945, ông Trường mất, bà Cúc cùng các con ở lại trên mảnh đất 777m² nêu trên. Sau đó bốn người con của ông Trường và bà Cúc đều đi làm ăn xa, lập gia đình và sinh sống mỗi người một nơi, chỉ còn một mình bà Cúc vẫn sinh sống trên mảnh đất này. Đến năm 1990, bà Cúc mất và không để lại di chúc.

Ngày 20 tháng 01 năm 1994, ông Chu Khắc Sinh trở về và thỏa thuận chuyển nhượng cho ông Chu Khắc Thuyên (anh họ của ông Sinh) và bà Đinh Thị Tâm (vợ ông Thuyên) tài sản thừa kế bao gồm: 502m² đất thổ cư, một nhà cấp bốn hai gian mái ngói vách đất, ao cùng toàn bộ cây cối lưu niên trong vườn. Các bên thỏa thuận miệng giá chuyển nhượng là 1.500.000 đồng. Đơn chuyển quyền thừa kế có chứng nhận của Trưởng tộc họ Chu Khắc là ông Chu Khắc Chinh, chứng nhận của thôn Văn Châu, và chứng nhận của xã Phù Vân. Tuy nhiên, việc chuyển nhượng này không có sự đồng ý của các đồng thừa kế khác.

Ngày 04 tháng 4 năm 1994, bà Thanh và bà The đã làm đơn khiếu nại đến ủy ban nhân dân (UBND) xã Phù Vân về việc chuyển quyền thừa kế này. Ngày 10 tháng 4 năm 1994, UBND xã Phù Vân ra thông báo số 05/TB-UB về việc tạm đình chỉ việc chuyển nhượng.

Ngày 15 tháng 4 năm 1994, bà Thanh và bà The làm giấy giao quyền trông nom cho ông Thuyên với nội dung: giao quyền sử dụng đất, nhà trên đất và các cây cối lưu niên cho ông Thuyên sử dụng và thu hoạch trong vòng 5 năm kể từ ngày 15 tháng 4 năm 1994 đến ngày 15 tháng 4 năm 1999. Việc giao quyền trông nom này đã được chứng nhận bởi tổ chức thụ ủy UBND xã Phù Vân xác nhận.

Năm 1999, ông Chu Khắc Thuyên mất, phần đất và tài sản trên đất nói trên tiếp tục được vợ là Đinh Thị Tâm thu hoạch và quản lý.

Ngày 22/11/2001, ông Chu Văn Sinh lập Giấy giao quyền sử dụng đất cho ông Chu Khắc Chinh (là trưởng họ). Tuy nhiên từ khi lập biên bản này thì ông Chinh chưa bao giờ quản lý thửa đất mà vẫn do gia đình bà Đinh Thị Tâm quản lý.

Tháng 5/2016, bà Tâm cùng con gái là Chu Thị Mai làm nhà trên mảnh đất kể trên. Không đồng ý với việc xây cất của bà Tâm, bà Thanh có đơn gửi UBND xã Phù Vân đề nghị giải chấp quyền đến can thiệp nhưng bà Tâm vẫn tiếp tục xây dựng. UBND xã Phù Vân đã tiến hành 02 phiên hòa giải vào ngày 19/06/2016 và ngày 25/10/2016 nhưng không hòa giải thành.

Ngày 05/11/2016, bà Chu Thị Thanh và ông Chu Văn Sinh khởi kiện yêu cầu bà Đinh Thị Tâm trả lại diện tích 777m² đất, đồng thời yêu cầu bà Tâm trả 50% tổng giá trị thu nhập cây lưu niên kể từ ngày 15/4/1994.

Ngày 09/11/2016, TAND thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam ra Thông báo số 20/TB-TLVA về việc thụ lý vụ án. Ngày 27/02/2017, TAND thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam tiến hành hòa giải lần 1 cho các đương sự; hòa giải không thành. Ngày 07/03/2017, TAND thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam tiến hành hòa giải lần 2 cho các đương sự; hòa giải không thành.

Ngày 03/08/2017, TAND thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam ra quyết định số 65/2017/QĐST-DS đưa vụ án ra xét xử.

 

II. CÁC VẤN ĐỀ VỀ TỐ TỤNG

1. Quan hệ pháp luật tranh chấp

Nguyên đơn khởi kiện bị đơn để đòi lại mảnh đất có diện tích 777m² tại thửa đất số 40, tờ bản đồ số 02 lập năm 1998 và một số tài sản trên đất. Bị đơn cho rằng một trong số các nguyên đơn đã chuyển quyền thừa kế mảnh đất trên cho chồng mình nên quyền sử dụng mảnh đất này là của bị đơn. Các nguyên đơn cho rằng mảnh đất này là của cha mẹ họ và họ là người thừa kế theo quy định pháp luật nên quyền sử dụng mảnh đất này thuộc về nguyên đơn. Do đó, tranh chấp này là tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định tại khoản 9 Điều 26 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015.

2. Người tham gia tố tụng
+ Nguyên đơn:

Bà Chu Thị Hồng Thanh (sinh năm: 1930) – tên thường gọi: Chu Thị Thanh

Địa chỉ: 12 tổ 16 phường Nam Thanh, TP. Điện Biên, tỉnh Điện Biên

Đại diện theo ủy quyền: Chu Thị Hồng Tâm (sinh năm: 1970)

Ông Chu Văn Sinh (sinh năm: 1936)

Địa chỉ: Thôn Vạn Thắng, xã Hòa Thắng, huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn

+ Bị đơn: Bà Đinh Thị Tâm (sinh năm: 1930)

Địa chỉ: Thôn 6, xã Phù Vân, Thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam

+ Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

Bà Chu Thị Loan (sinh năm: 1935)

Địa chỉ: Tổ 3 phường Cầu Thia, thị xã Nghĩa Lộ, tỉnh Yên Bái

Đại diện theo ủy quyền: Ông Chu Anh Quyết (sinh năm: 1952)

Bà Chu Thị The (sinh năm: 1994)

Địa chỉ: đội 1, thôn Điền Điền, xã Bình Hoà, huyện Giao Thuỷ, tỉnh Nam Định

Đại diện theo ủy quyền: Ông Chu Anh Quyết (sinh năm: 1952)

Ông Chu Khắc Hồng (sinh năm: 1956)

Bà Trần Thị Đắc (sinh năm: 1957)

Bà Chu Thị Mai (sinh năm: 1952): Cùng địa chỉ: Thôn 6, xã Phù Vân, Thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam

3. Điều kiện khởi kiện
Nguyên đơn có đầy đủ điều kiện khởi kiện theo quy định pháp luật căn cứ vào Điều 16, Điều 19 Bộ luật Dân sự 2015; Điều 69, Điều 186 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015.

 

4. Thời hiệu khởi kiện
Căn cứ Khoản 3 Điều 155 Bộ luật Dân sự 2015 thì tranh chấp về quyền sử dụng đất không áp dụng thời hiệu khởi kiện.

5. Thẩm quyền của Tòa án

Thẩm quyền chung: Vụ án trên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án căn cứ vào khoản 9 Điều 26 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015;

Thẩm quyền của Tòa án theo cấp: theo Khoản 9 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 thì tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án. Cụ thể hơn theo điểm a Khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 thì Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai.

Thẩm quyền Tòa án theo lãnh thổ: theo Điểm c Khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 thì đối tượng tranh chấp là bất động sản thì chỉ Tòa án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết. Trong vụ án này, mảnh đất đang có tranh chấp có địa chỉ tại thôn 6, xã Phù Vân, huyện Phủ Lý (nay là Thành phố Phủ Lý), tỉnh Hà Nam. Vậy Tòa án có thẩm quyền giải quyết sẽ là Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam.

 

6. Thủ tục tiền tố tụng

Tranh chấp đất đai giữa nguyên đơn và bị đơn không thể tự hoà giải được nên bắt buộc phải hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất tranh chấp theo Quy định tại điều 202 Luật Đất Đai năm 2013.

Trong vụ án này, việc tranh chấp nêu trên đã được hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã Phù Vân lần thứ nhất vào ngày 19/6/2016 nhưng không thành do ông Chu Văn Sinh vắng mặt và bà Đinh Thị Tâm đã không ký vào biên bản hòa giải. Lần hòa giải thứ hai ngày 25/10/2016 cũng không thành do bà Đinh Thị Tâm không có mặt.

 

7. Văn bản pháp luật áp dụng

Bộ luật Dân sự 2005; và các văn bản pháp luật liên quan

Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015; và các văn bản pháp luật liên quan

Luật Đất đai 2014 và các văn bản pháp luật liên quan

 

III. TRÌNH BÀY TÓM TẮT YÊU CẦU KHỞI KIỆN CỦA NGUYÊN ĐƠN

Nguyên đơn yêu cầu TAND thành phố Phủ Lý buộc bị đơn:

– Trả lại toàn bộ 777m² đất tại thửa đất số 40, tờ bản đồ số 2, lập năm 1998 tại thôn 6, xã Phù Vân, huyện Phủ Lý, tỉnh Hà Nam cho bà Chu Thị Thanh, ông Chu Văn Sinh, bà Chu Thị Loan, bà Chu Thị The;

– Trả lại toàn bộ nhà cửa, cây cối, hoa màu cùng với 50% tổng giá trị thu nhập cây lưu niên trên diện tích 777m² đất trên kể từ ngày 15 tháng 4 năm 1994 theo giấy gủi UBND xã Phù Vân, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam (năm 1994).

– Tháo dỡ nhà và các công trình đã xây dựng trái phép trên thửa đất là di sản thừa kế của nguyên đơn.

 

IV. KẾ HOẠCH HỎI BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA NGUYÊN ĐƠN
1. Hỏi bị đơn bà Đinh Thị Tâm
Bà cho biết quan hệ giữa bà với bà Chu Thị Cúc và ông Chu Khắc Trường?

Sau khi bà Cúc chết, ông bà có ký thỏa thuận chuyển quyền thừa kế với ông Chu Khắc Sinh hay không? Ký với những ai?

Khi ký kết thỏa thuận này bà có biết đất này là thuộc quyền sở hữu chung của các anh chị em ông Sinh hay không?

Bà có nhận được thông báo về việc tạm dừng tiến hành việc chuyển quyền thừa kế ngày 10/04/1994 của UBND xã Phù Vân không?

Bà có biết việc chồng bà là ông Thuyên đã ký Giấy giao quyền trông nom mảnh đất 777m² trong thời hạn 5 năm từ 15/04/1994 đến 15/4/1999 không?

Theo Giấy giao quyền trông nom mà chồng bà ký, đất này không được phép xây dựng cơ bản và chỉ được thu sửa nhà cửa để ở, có đúng không?

Vào ngày 22/11/2001, ông Chu Văn Sinh có làm giấy giao quyền sử dụng đất cho ông Chu Khắc Chinh, việc này có xác nhận của thôn 6 và UBND xã Phù Vân. Bà Tâm có biết việc này không?

Đến giờ mảnh đất trên ai là người đứng tên trong sổ đỏ địa chính?

Bà Chu Thị Cúc trước khi mất có hứa tặng, cho thừa kế mảnh đất này không? Sau khi bà Cúc mất, 4 con em bà Cúc có hứa tặng, cho, chuyển nhượng mảnh đất cho bà không?

Hoa lợi trung bình 01 năm bà thu được trên mảnh đất tranh chấp là bao nhiêu? Bà đã trả tiền hoa màu cho các con của bà Cúc như đã thỏa thuận chưa? Nếu có trả thì bằng hình thức gì? Ai làm chứng?

Bà có xây nhà trên diện tích đất này không? Bà có thông báo việc xây nhà cho các con của bà Cúc biết không? Tại sao lại xây nhà trên mảnh đất mà chủ sở hữu vẫn là bà Chu Thị Cúc?

Có ai phản đối việc bà xây nhà không?

Bà có biết ý kiến của cán bộ địa chính xã và trưởng thôn về việc nhà bà xây là trái phép không?

 

2. Hỏi người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan (bà Chu Thị Mai)

Bà có biết tài sản trên đất mà ông Sinh, bà Thanh đang kiện đòi bà Đinh Thị Tâm là của ai?

Bà có biết phần nghĩa vụ tài chính và thuế đối với thửa đất đang tranh chấp từ trước đến nay là do ai nộp?

 

3. Hỏi người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Chu Thị The (hỏi người ủy quyền: Chu Anh Quyết)

Trước ngày 20/01/1994 chị em bà The có bao giờ bàn với nhau về việc chia thừa kế với di sản của cha mẹ bà hay không?

Thời điểm nào thì bà Chu Thị The biết ông Chu Văn Sinh chuyển quyền thừa kế cho ông Chu Khắc Thuyên?

 

4. Hỏi người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Chu Thị Loan (hỏi người ủy quyền: Chu Anh Quyết)

Anh hãy cho biết chị em bà Loan có họp gia đình thống nhất việc giao cho ông Thuyên quản lý, thu hoa màu hay không? Có được lập biên bản gì hay không?

Anh cho biết bà Loan có biết việc ông Chu Văn Sinh chuyển quyền thừa kế mảnh đất trên cho ông Chu Khắc Thuyên hay không?

Việc giao cho ông Thuyên và bà Tâm chăm nom, chăm sóc, thu hoa lợi trên mảnh đất bà Loan có biết và có ý kiến gì không?

Nguyện vọng của bà Loan như thế nào đối với việc giải quyết vụ án?

 

5. Hỏi nguyên đơn ông Chu Văn Sinh

Ông hãy trình bày nguồn gốc của thửa đất 40 tờ bản đồ số 02 diện tích 777m² mà ông khởi kiện?

Ông hãy cho biết, khi ông Trường và bà Cúc mất năm nào? Khi mất có để lại di chúc hay không?

Từ khi bà Chu Thị Cúc chết, phần di sản trên do ai quản lý?

Ông hãy cho biết việc ông làm giấy chuyển quyền thừa kế cho ông Chu Khắc Thuyên có được sự đồng ý của các đồng thừa kế khác hay không?

Thời điểm ông chuyển quyền thừa kế cho ông Chu Khắc Thuyên bao gồm những phần tài sản nào?

Ông hãy cho biết Giấy giao quyền trông nom thỏa thuận có những nội dung gì? Có ai làm chứng hay không?

Việc đóng thuế và thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với thửa đất số 40 tờ bản đồ số 02 lập năm 1998 do ai thực hiện?

Ông có biết đến nay, thửa đất này đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chưa? Ai là người đứng tên trên hồ sơ địa chính của thửa đất?

 

6. Hỏi nguyên đơn bà Chu Thị Thanh (Người đại diện theo ủy quyền: Chu Thị Hồng Tâm)

Vào thời điểm nào thì bà Thanh biết việc em trai mình là ông Chu Văn Sinh chuyển quyền thừa kế cho ông Chu Khắc Thuyên?

Chị em bà Thanh có thống nhất về việc bán hay tặng cho mảnh đất này ai không?

Khi bà Thanh biết việc ông Sinh chuyển quyền thừa kế cho ông Chu Khắc Thuyên thì bà Thanh đã có những hành động gì? Chính quyền địa phương có ý kiến gì đối với yêu cầu đình chỉ việc chuyển quyền thừa kế của chị em bà Thanh không?

Năm 1994, bà Thanh cùng các chị em thỏa thuận giao quyền trông nom đất và tài sản gắn liền với đất cho ông Chu Khắc Thuyên. Nội dung thỏa thuận này có nhận được sự đồng ý của các đồng thừa kế khác không?

Khi bà Thanh và các em giao quyền trông nom cho ông Chu Khắc Thuyên thì có kê rõ những tài sản gì? Tài sản đó thuộc sở hữu của ai?

Khi bà Thanh biết bà Tâm xây nhà trên đất do bố mẹ mình để lại, bà có ý kiến phản ứng gì không?

Từ năm 1994 đến nay, bà Tâm có thực hiện liên tục việc chia 50% lợi tức từ việc thu hoạch các sản phẩm cây cối trên đất cho chị em bà Thanh như thỏa thuận hay không?

 

V. LUẬN CỨ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CHO NGUYÊN ĐƠN

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

——o0o——

Kính thưa Hội đồng xét xử

Tôi là luật sư ……, đến từ văn phòng luật sư ABC, thuộc Đoàn Luật Sư Thành phố Hà Nội. Tại phiên tòa ngày hôm nay, được sự yêu cầu của nguyên đơn và sự chấp thuận của Tòa án, tôi tham gia với tư cách là luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn là bà Chu Thị Thanh và ông Chu Khắc Sinh trong vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất” với bị đơn là bà Đinh Thị Tâm. Vụ án hiện do TAND TP. Phủ Lý, Hà Nam thụ lý, giải quyết theo thủ tục sơ thẩm. Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, các chứng cứ từng người liên quan khai báo trong suốt phiên tòa hôm nay, tôi xin phép không tóm tắt lại nội dung vụ án.

Kính thưa Hội đồng xét xử, sau đây, tôi xin trình bày nội dung luận cứ để bảo vệ cho quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn như sau:

Thứ nhất: Việc yêu cầu bị đơn phải trả lại thửa đất diện tích 777m² cho các nguyên đơn gồm bà Loan và bà The là hoàn toàn hợp pháp và có căn cứ.

Về nguồn gốc, thửa đất trên là tài sản chung của vợ chồng ông Trường – bà Cúc, cha mẹ của các thành thân tôi. Việc có tên bà Cúc trong sổ địa chính là một trong những căn cứ để chứng minh quyền sử dụng đất của bà Cúc theo quy định của Điều 50 Luật Đất Đai 2003. Cụ thể, điểm b khoản 1 điều 50 Luật Đất Đai 2003 quy định:

“Điều 50. Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư đang sử dụng đất

1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định, được Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận không có tranh chấp mà có một trong các loại giấy tờ sau đây thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất:

b) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính.”

Năm 1990, bà Cúc mất không để lại di chúc. Căn cứ theo tiểu mục 1.2 mục 1 phần II Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10 tháng 8 năm 2004, hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình có quy định:

“Đối với trường hợp đất do người chết để lại mà người đó có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 điều 50 của Luật Đất Đai năm 2003, thì kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2004 quyền sử dụng đất đó cũng là di sản, không phụ thuộc vào thời điểm mở thừa kế”.

Như vậy, quyền sử dụng đất trên của bà Cúc và ông Trường là di sản thừa kế. Ở đây, cả ông Trường và bà Cúc mất không để lại di chúc nên việc chia thừa kế thửa đất trên sẽ thực hiện chia theo pháp luật, cụ thể là chia cho các đồng thừa kế là 4 người con của ông Trường – bà Cúc.

Căn cứ các lý lẽ trên, diện tích đất 777m² nêu trên là tài sản chung của các ông bà Chu Thị Thanh, Chu Thị Loan, Chu Văn Sinh và Chu Thị The. Đất này chưa được sang tên cho các thân chủ của tôi và hiện vẫn mang tên bà Cúc vì các thân chủ của tôi chưa tiến hành thủ tục kê khai nhận di sản thừa kế.

Thứ hai: thỏa thuận chuyển nhượng ngày 20 tháng 01 năm 1994 giữa ông Chu Văn Sinh và ông Chu Khắc Thuyên là không có giá trị pháp lý, bởi các lẽ sau đây:

Sau khi bà Cúc mất, phần diện tích đất trên là tài sản chung của các người thừa kế. Việc ông Sinh chưa được sự đồng ý của ba người đồng thừa kế là bà Thanh, bà Loan và bà The mà đã tự ý làm đơn chuyển quyền thừa kế toàn bộ gia sản lại cho ông Chu Khắc Thuyên và bà Đinh Thị Tâm là vi phạm điều cấm pháp luật. Vấn đề này đã được UBND xã Phù Vân khẳng định bằng Thông báo số 05/TB-UB ngày 10/4/1994 – Tạm đình chỉ việc chuyển quyền thừa kế giữa ông Sinh và ông Thuyên.

Đồng thời, căn cứ các bút lục số 25, 28 và 29 – là biên bản hòa giải tranh chấp đất đai ngày 19 tháng 6 năm 2012 và biên bản ngày 25 tháng 10 năm 2012 của UBND huyện Phù Vân, hội đồng hòa giải cũng khẳng định đất đang tranh chấp là đất của bà Cúc chứ không phải của bà Tâm, và yêu cầu bà Tâm tháo dỡ; giữ nguyên hiện trạng, trả lại đất cho các thân chủ của tôi.

Do quyền thừa kế này là của chung bốn chị em nên việc ông Sinh tự ý định đoạt thông qua “Giấy chuyển quyền thừa kế” là hoàn toàn trái pháp luật. Như vậy, căn cứ điều 131 Bộ Luật Dân Sự 1995, việc chuyển quyền thừa kế từ ông Sinh sang cho ông Thuyên thông qua văn bản thỏa thuận ngày 20 tháng 01 năm 1994 là vô hiệu, không có giá trị và không thể được dùng làm căn cứ để xác lập quyền sử dụng đất và quyền sở hữu với các tài sản trên đất cho ông Thuyên và bà Tâm.

Thứ ba: đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị đơn là bà Đinh Thị Tâm hoàn trả lại nhà, cây cối và hoa màu trên diện tích đất 777m² và 50% tổng giá trị thu nhập cây lưu niên từ ngày 15 tháng 4 năm 1994 đến nay.

Như đã phân tích ở trên, việc chiếm hữu, sử dụng và hưởng lợi từ thửa đất trên của bà Tâm là trái pháp luật, các thân chủ của tôi hoàn toàn có quyền yêu cầu bà Tâm phải hoàn trả lại thửa đất cùng các tài sản trên đất, căn cứ quy định tại điểm b mục 2.4 Nghị Quyết số 02/2004/NQ-HĐTP và điều 256 Bộ Luật Dân Sự 2005, quy định về quyền đòi lại của các thân chủ:

Trường hợp người chiếm giữ tài sản cho các thừa kế, nhưng các thừa kế không trực tiếp sử dụng quản lý, mà di sản đó đang do người khác chiếm hữu, quản lý theo ủy quyền thì các thừa kế có quyền kiện đòi tài sản”

Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền đòi lại tài sản của mình từ người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật đối với tài sản thuộc quyền sở hữu của mình phải hoàn trả lại tài sản đó.”

Như đã được thể hiện ở các bút lục số 10, 11 và qua phiên xét hỏi tại tòa hôm nay, vào ngày 15 tháng 4 năm 1994, gia đình nguyên đơn đã lập giấy giao quyền trông nom cho ông Thuyên trông coi, quản lý nhà đất và toàn bộ cây cối trên mảnh đất. Theo đó, ông Thuyên phải giữ nguyên hiện trạng, không được xây mới, không được chuyển nhượng, không được phép xây dựng nhà cửa, trừ trường hợp sửa để ở. Thời hạn trông coi ủy là 5 năm từ ngày 15 tháng 4 năm 1994 đến ngày 15 tháng 4 năm 1999. Tuy nhiên từ năm 1994 cho đến nay, phía bị đơn tự ý cho đổ bê tông căn nhà cũng như chặt phá một số cây lưu niên trong vườn, mà không thông báo với phía nguyên đơn.

Đối với phần hoa lợi, lợi tức, điều 235 Bộ Luật Dân Sự 2005 quy định rằng:

“Chủ sở hữu, người sử dụng tài sản có quyền sở hữu đối với hoa lợi, lợi tức theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật, kể từ thời điểm thu được hoa lợi, lợi tức đó.”

Theo đó, trong giấy giao quyền trông nom cho ông Thuyên, các bên đã thỏa thuận rõ tổng giá trị thu nhập cây lưu niên hàng năm, ông Thuyên được hưởng 50% và phải thực hiện nghĩa vụ tài chính với nhà nước; phần còn lại thuộc về bốn chị em bà Thanh. Tuy nhiên từ năm 1994 đến nay, phía bị đơn không trả hoa lợi đã thu thập được cho nguyên đơn, cũng như không thực hiện nghĩa vụ tài chính với nhà nước. Hành vi này đã vi phạm thỏa thuận ngày 15 tháng 4 năm 1994 và việc nguyên đơn yêu cầu bị đơn hoàn trả 50% tổng giá trị thu nhập cây lưu niên từ ngày 15 tháng 4 năm 1994 đến nay là có căn cứ và phù hợp với pháp luật.

Thứ tư: việc bà Đinh Thị Tâm xây dựng căn nhà cấp 4 diện tích 100m² vào tháng 5 năm 2016 là vi phạm thỏa thuận giữa các bên khi ký kết Giấy giao quyền trông nom. Khi biết việc bà Tâm xây dựng trái phép trên mảnh đất thuộc quyền sử dụng của mình, các đương sự không đồng ý và ngay lập tức đã có đơn đề nghị Ủy ban nhân dân xã Phù Vân can thiệp giải quyết. Trong Biên bản hòa giải ngày 19/06/2016, cán bộ địa chính xã cũng đã có ý kiến:

Việc bà Đinh Thị Tâm xây nhà trên đất của bà Chu Thị Cúc là không đúng… bà Đinh Thị Tâm không có quyền gì trên mảnh đất trên”.

Do đó bà Tâm phải tháo dỡ, trả lại diện tích đất nới trên cho các nguyên đơn, đồng thừa kế khác và không có nghĩa vụ phải bồi thường việc đã tháo dỡ, thiệt hại do việc tháo dỡ tài sản của bà Tâm để trả lại di sản thừa kế cho họ.

Với các quy định của pháp luật và chứng cứ vừa nêu, tôi kính đề nghị Hội Đồng Xét Xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của phía nguyên đơn, bao gồm:

Thứ nhất, yêu cầu bà Tâm trả lại diện tích đất 777m² đã tại thửa số 40, tờ bản đồ số 2 lập năm 1998 cho bà Thanh, ông Sinh, bà Loan và bà The.

Thứ hai, buộc bà Đinh Thị Tâm trả lại nhà, cây cối và hoa màu trên diện tích đất 777m² với 50% tổng giá trị thu nhập cây lưu niên từ ngày 15 tháng 4 năm 1994 đến nay.

Thứ ba, buộc bà Đinh Thị Tâm tháo dỡ nhà, trả lại tài sản cho nguyên đơn và các đồng thừa kế khác để họ có điều kiện thờ cúng cha mẹ. Họ không có nghĩa vụ bồi thường cho việc tháo dỡ nhà của do bị đơn xây dựng trái phép.

Trên đây là toàn bộ những ý kiến và quan điểm của tôi nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn là bà Chu Thị Hồng Thanh và ông Chu Khắc Sinh.

Mong Hội Đồng Xét Xử xem xét và đưa ra phán quyết công bằng, đúng pháp luật.
Tôi xin chân thành cảm ơn Hội Đồng Xét Xử đã lắng nghe.

 

VI. NHẬN XÉT BUỔI DIỄN ÁN

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *