G-71JYJ3V6DC

Kịch bản Diễn án: Dân sự lần 1 (Hồ sơ vụ án hôn nhân gia đình LS.DS07/DA1)

23 Tháng Sáu, 2025
admin
Please follow and like us:

KỊCH BẢN DIỄN ÁN DÂN SỰ LS.DS07

Diễn án: Dân sự lần 1 (Hồ sơ vụ án hôn nhân gia đình LS.DS07/DA1)

Kem bài thu hoach diễn án TẠI ĐÂY

 

DANH SÁCH THAM GIA DIỄN ÁN

 

TT Vai diễn Họ và tên học viên SBD Ghi chú
Hội đồng xét xử
1 Chủ tọa – Thẩm phán: Bà Thẩm phán Nguyễn Văn A 1
2 Hội thẩm nhân dân 1: Bà HTND1 Nguyễn Văn B 2
3 Hội thẩm nhân dân 2: Bà HTND2 Nguyễn Văn C 3
4 Thư ký phiên tòa: Bà Thư ký Nguyễn Văn D 4
5 Đại diện Viện kiểm sát: Bà VKS Nguyễn Văn E 5
Nguyên Đơn & Luật sư Nguyên đơn
6 Chị Hoàng Thị Hảo Nguyễn Văn F 6
7 Luật sư bảo vệ Nguyên đơn Nguyễn Văn G 7
Bị Đơn & Luật sư Bị đơn
8 Anh Nguyễn Văn Nguyệt Nguyễn Văn H 8
9 Luật sư bảo vệ Bị đơn Nguyễn Văn I 9
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan (QLNVLQ)
10 Bà Nguyễn Thị Thoa và Ông Nguyễn Văn Cang – cử đại diện theo ủy quyền Nguyễn Văn J 10
11 Cháu Nguyễn Đức Anh Nguyễn Văn K 11
12 Cháu Nguyễn Thị Nhi Nguyễn Văn L 12
13 UBND Thành phố Hải Dương – cử đại diện theo ủy quyền Lê Thị M 13
Người làm chứng
14 Ông Nguyễn Văn Bích – Cán bộ địa chính xã Thượng Đạt Nguyễn Văn N 14
15 Ông Nguyễn Văn Quyết – anh trai Bị đơn Nguyễn Văn O 15

KỊCH BẢN

CHUẨN  BỊ PHIÊN TÒA
Thư ký

( Ngồi)

Yêu cầu tất cả những người có mặt trong phòng xử án giữ trật tự để tôi kiểm tra những người có mặt, vắng mặt và phổ biến nội quy của tòa.

Để làm thủ tục phiên tòa, khi tôi gọi tên những người được triệu tập, đề nghị người được gọi nói “CÓ” và mang theo giấy báo, giấy triệu tập, giấy tờ tùy thân lên bàn Thư ký để kiểm tra.

+ Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị Hảo có mặt không?

+ Bị đơn: Anh Nguyễn Văn Nguyệt có mặt không?

+ Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan UBND TP Hải Dương – Đại diện theo ủy quyền: bà Lê Thị M – Chánh Văn phòng UBND

+ Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Bà Nguyễn Thị Thoa và ông Nguyễn Văn Cang – người đại diện theo ủy quyền là bà Nguyễn Văn J có mặt không?

+ Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan cháu Nguyễn Đức Anh có mặt không?

+ Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan cháu Nguyễn Thị Nhi có mặt không?

+ Người làm chứng: Ông Nguyễn Văn Bích (Nguyễn Văn N) Vó mặt không?

+ Người làm chứng: Ông Nguyễn Văn Quyết ( Nguyễn Văn O) Có mặt không?

+ Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn: LS Nguyễn Văn G có mặt không?

+ Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn: LS Nguyễn Văn I có mặt không?

Phần kiểm tra Căn cước đã xong, yêu cầu mọi người trật tự, tôi phổ biến nội quy phiên tòa (đứng)

Nội quy phiên tòa được quy định tại Điều 234 Bộ Luật Tố tụng Dân sự 2015

1. Khi vào phòng xử án, mọi người đều phải chấp hành việc kiểm tra an ninh của lực lượng có trách nhiệm bảo vệ phiên tòa.

2. Nghiêm cấm mang vào phòng xử án vũ khí, hung khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, đồ vật cấm lưu hành, truyền đơn, khẩu hiệu và tài liệu, đồ vật khác ảnh hưởng đến sự tôn nghiêm của phiên tòa, trừ vật chứng của vụ án phục vụ cho công tác xét xử hoặc vũ khí, công cụ hỗ trợ được người có thẩm quyền mang theo để làm nhiệm vụ bảo vệ phiên tòa.

3. Người tham gia phiên tòa theo yêu cầu của Tòa án phải xuất trình giấy triệu tập, giấy mời, các giấy tờ có liên quan khác cho Thư ký phiên tòa tại bàn thư ký chậm nhất là 15 phút trước giờ khai mạc phiên tòa và ngồi đúng vị trí trong phòng xử án theo hướng dẫn của Thư ký phiên tòa; trường hợp đến muộn thì phải xuất trình giấy triệu tập, giấy mời, các giấy tờ có liên quan khác cho Thư ký phiên tòa thông qua lực lượng làm nhiệm vụ bảo vệ phiên tòa.

4. Nhà báo tham dự phiên tòa để đưa tin về diễn biến phiên tòa phải chấp hành sự điều khiển của chủ tọa phiên tòa về khu vực tác nghiệp. Nhà báo ghi âm lời nói, ghi hình ảnh của Hội đồng xét xử phải được sự đồng ý của chủ tọa phiên tòa. Việc ghi âm lời nói, ghi hình ảnh của đương sự, người tham gia tố tụng khác phải được sự đồng ý của họ.

5. Mọi người tham dự phiên tòa phải có trang phục nghiêm chỉnh; có thái độ tôn trọng Hội đồng xét xử, giữ trật tự và tuân theo sự điều khiển của chủ tọa phiên tòa.

6. Không đội mũ, nón, đeo kính màu trong phòng xử án, trừ trường hợp có lý do chính đáng và được sự đồng ý của chủ tọa phiên tòa; không sử dụng điện thoại di động, không hút thuốc, không ăn uống trong phòng xử án hoặc có hành vi khác ảnh hưởng đến sự tôn nghiêm của phiên tòa.

7. Người tham gia phiên tòa theo yêu cầu của Tòa án phải có mặt tại phiên tòa trong suốt thời gian xét xử vụ án, trừ trường hợp được chủ tọa phiên tòa đồng ý cho rời khỏi phòng xử án khi có lý do chính đáng. Người dưới mười sáu tuổi không được vào phòng xử án, trừ trường hợp được Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa.

8. Mọi người trong phòng xử án phải đứng dậy khi Hội đồng xét xử vào phòng xử án và khi tuyên án, trừ trường hợp đặc biệt được sự đồng ý của chủ tọa phiên tòa.

9. Chỉ những người được Hội đồng xét xử đồng ý mới được hỏi, trả lời hoặc phát biểu. Người hỏi, trả lời hoặc phát biểu phải đứng dậy, trừ trường hợp vì lý do sức khỏe được chủ tọa phiên tòa đồng ý cho ngồi để hỏi, trả lời, phát biểu.

Mọi người đã nghe rõ nội quy phiên tòa chưa?

Yêu cầu mọi người trong phòng xét xử đứng dậy.

Mời HĐXX vào phòng xử án

THỦ TỤC BẮT ĐẦU PHIÊN TÒA
Chủ tọa

( Đứng)

Nhân danh nước CHXHCN Việt Nam, hôm nay, ngày 10/04/2019, TAND Thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương tiến hành xét xử công khai vụ án dân sự sơ thẩm về:

“Tranh chấp ly hôn, nuôi con, chia tài sản”
giữa nguyên đơn là chị Hoàng Thị Hảo và bị đơn là anh Nguyễn Văn Nguyệt.

Thay mặt HĐXX, tôi tuyên bố khai mạc phiên tòa.
Mời mọi người trong phòng xử án ngồi, các đương sự đứng tại chỗ để nghe Hội đồng xét xử công bố quyết định đưa vụ án ra xét xử.

QUYẾT ĐỊNH

Số: 73/2017/QĐST-DS
TÒA ÁN NHÂN DÂN TP HẢI DƯƠNG – TỈNH HẢI DƯƠNG

Căn cứ các Điều 48, 203 và 220 của Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015;
Căn cứ vào hồ sơ vụ án dân sự đã thụ lý số 20/2016/TLST-HNGĐ ngày 6 tháng 1 năm 2016 về việc tranh chấp ly hôn, nuôi con, chia tài sản,

QUYẾT ĐỊNH:

Điều 1. Đưa ra xét xử sơ thẩm vụ án dân sự về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con, chia tài sản” giữa:

Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị Hảo, sinh năm 1978
Địa chỉ: Thôn Nam Giang, xã Thượng Đạt, thành phố Hải Dương.

Bị đơn: Anh Nguyễn Văn Nguyệt
Địa chỉ: Thôn Thượng Triệt I, xã Thượng Đạt, thành phố Hải Dương.

Điều 2. Những người tiến hành tố tụng:

Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa:Nguyễn Văn A

Các Hội thẩm nhân dân:

HTND 1: Bà Nguyễn Văn C – Chủ tịch Hội LHPN TP Hải Dương

HTND 2: Bà Nguyễn Văn B – Phó Chủ tịch Hội cựu chiến binh TP Hải Dương

Thư ký phiên tòa:Nguyễn Văn D – Cán bộ TAND TP Hải Dương

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tham gia phiên tòa:Nguyễn Văn E – Kiểm sát viên VKSND TP Hải Dương

Điều 3. Những người tham gia tố tụng:

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Nguyễn Thị Thoa, sinh năm 1944

Ông Nguyễn Văn Cang, sinh năm 1930

Người đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn Thị Thoa và ông Nguyễn Văn Cang là bà Nguyễn Văn J
Cùng cư trú tại: Khu dân cư số 2, Thôn Thượng Triệt I, xã Thượng Đạt, TP Hải Dương

UBND TP Hải Dương – Đại diện theo ủy quyền là bà Lê Thị M – Phó Chánh Văn phòng UBND TP Hải Dương.

Người làm chứng:

Ông Nguyễn Văn N – Cán bộ Địa chính xã Thượng Đạt

Ông Đỗ Văn Tư – Cán bộ Tư pháp xã Thượng Đạt

Ông Nguyễn Văn O, sinh năm 1974

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp:

Cho nguyên đơn: Luật sư Nguyễn Văn G, thuộc VPLS A – Đoàn Luật sư TP Hà Nội

Cho bị đơn: Luật sư Nguyễn Văn I, thuộc VPLS B – Đoàn Luật sư TP Hà Nội

Nơi nhận:

Các đương sự;

VKS cùng cấp;

Lưu hồ sơ vụ án.

TÒA ÁN NHÂN DÂN TP HẢI DƯƠNG

Thẩm phán
(Đã ký và đóng dấu)
NGUYỄN VĂN A

Mời các đương sự ngồi

Đề nghị Thư ký phiên tòa báo cáo với Hội đồng xét xử về sự có mặt, vắng mặt của những người tham gia phiên tòa theo giấy triệu tập, giấy báo của Tòa và lý do vắng mặt.

Thư ký Báo cáo HĐXX, tại phiên tòa hôm nay,

+ Nguyên đơn chị Hoàng Thị Hảo: có mặt.

+ Bị đơn anh Nguyễn Văn Nguyệt: có mặt.

+ Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị Thoa và ông Nguyễn Văn Cang – người đại diện theo ủy quyền bà Nguyễn Văn J: có mặt.

+ Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan UBND TP Hải Dương – Đại diện theo ủy quyền là bà Lê Thị M – Phó Chánh Văn phòng UBND TP Hải Dương: có mặt.

+Người làm chứng ông Nguyễn Văn N: có mặt.

+ Người làm chứng ông Đỗ Văn Tư: đã có đơn xin vắng mặt.

+ Người làm chứng ông Nguyễn Văn O: có mặt.

+ Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn: LS Nguyễn Văn G: có mặt.

+ Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn: LS Nguyễn Văn I: có mặt.

Thưa HĐXX tôi đã báo cáo xong, đề nghị HĐXX tiếp tục làm việc.

Chủ tọa Mời thư ký ngồi.
Sau đây, tôi thay mặt Hội đồng xét xử, kiểm tra căn cước của những người được Tòa triệu tập. Khi tôi gọi đến tên ai, đề nghị người đó đứng dậy.

Mời nguyên đơn đứng dậy

Đề nghị chị cho HĐXX biết họ tên, tên gọi khác, năm sinh, nơi cư trú?

Nguyên đơn Thưa HĐXX, tôi là Hoàng Thị Hảo, sinh 1978, hiện đang trú tại thôn Nam Giang, xã Thượng Đạt, TP Hải Dương, Tỉnh Hải Dương. Ngoài tên Hoàng Thị Hảo, tôi không có tên gọi nào khác.

Mời chị ngồi.

Chủ tọa Mời chị ngồi.

Mời bị đơn đứng dậy

Đề nghị anh cho HĐXX biết họ tên, tên gọi khác, năm sinh, nơi cư trú?
Bị đơn:

Bị đơn Thưa HĐXX, tôi tên là Nguyễn Văn Nguyệt, tên gọi khác không có, sinh năm 1976, trú tại thôn Thượng Triệt I, Xã Thượng Đạt, TP Hải Dương, Tỉnh Hải Dương.
Chủ tọa

Mời người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đứng dậy

Đề nghị cho HĐXX biết họ tên, tên gọi khác, năm sinh, nơi cư trú?

Nguyễn Văn J đại diện Thưa HĐXX, tôi là Nguyễn Văn J, tên gọi khác không có, sinh năm 1974, trú tại Khu dân cư số 2, thôn Thượng Triệt, Xã Thượng Đạt, TP Hải Dương, đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn Thị Thoa và ông Nguyễn Văn Cang.
Chủ tọa Mời bà ngồi

Mời người đại diện theo ủy quyền của UBND thành phố Hải Dương là bà Lê Thị M đứng dậy. Bà hãy cho HĐXX biết họ tên, chức vụ?

Lê Thị M – đại diện: Thưa HĐXX, tôi là Lê Thị M, chức vụ: Phó Chánh Văn phòng UBND TP Hải Dương, đại diện cho UBND Thành phố Hải Dương tham gia phiên tòa.
Chủ tọa Mời bà ngồi xuống.Mời cháu Nguyễn Đức Anh đứng dậy, cháu cho HĐXX được biết đầy đủ họ tên, ngày tháng năm sinh và nơi thường trú.
Nguyễn Đức Anh:

 

Cháu tên Nguyễn Đức Anh, sinh ngày 13/6/2007, hiện cháu đang sống với bố Nguyệt ở Thôn Thượng Triệt I, xã Thượng Đạt, TP. Hải Dương.
Chủ tọa Mời cháu Nguyễn Đức Anh ngồi xuống, mời cháu Nguyễn Thị Nhi đứng dậy, cháu cho HĐXX được biết đầy đủ họ tên, ngày tháng năm sinh và nơi thường trú.
Nguyễn Thị Nhi: Cháu tên Nguyễn Thị Nhi, sinh ngày 04/01/2000, hiện nay cháu đang ở với mẹ là chị Hảo tại Thôn Nam Giang, xã Thượng Đạt, TP Hải Dương.
Chủ tọa Mời cháu ngồi xuống.
– Mời người làm chứng ông Nguyễn Văn N đứng dậy. Ông hãy cho HĐXX biết họ tên, chức vụ?
Nguyễn Văn N – Địa chính: Thưa HĐXX, tôi là Nguyễn Văn N, chức vụ: Cán bộ địa chính xã Thượng Đạt, TP Hải Dương.
Chủ tọa: Mời ông ngồi.
– Mời người làm chứng Nguyễn Văn O đứng dậy. Đề nghị ông cho HĐXX biết họ tên, năm sinh, nơi cư trú?
Nguyễn Văn O:

 

Thưa HĐXX, tôi là Nguyễn Văn O, sinh năm 1974, trú tại Thôn Thượng Triệt I, xã Thượng Đạt, TP Hải Dương
Chủ tọa Mời ông ngồi
Sau đây tôi phổ biến quyền và nghĩa vụ của các đương sự tham gia phiên Tòa ngày hôm nay, mời các đương sự đứng dậy.Căn cứ theo quy định tại Điều 70 BLTTDS 2015, đương sự có các quyền và nghĩa vụ chung như sau:1.     Tôn trọng Tòa án, chấp hành nghiêm chỉnh nội quy phiên tòa.2.     Cung cấp đầy đủ, chính xác địa chỉ nơi cư trú, trụ sở của mình;3.     Giữ nguyên, thay đổi, bổ sung hoặc rút yêu cầu theo quy định của Bộ luật này.4.     Cung cấp tài liệu, chứng cứ; chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.5.     Tự bảo vệ hoặc nhờ người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình.

6.     Yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng theo quy định của Bộ luật này.

7.     Phải có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án và chấp hành quyết định của Tòa án trong quá trình Tòa án giải quyết vụ việc.

8.     Đưa ra câu hỏi với người khác về vấn đề liên quan đến vụ án hoặc đề xuất với Tòa án những vấn đề cần hỏi người khác; được đối chất với nhau hoặc với người làm chứng.

9.     Tranh luận tại phiên tòa, đưa ra lập luận và đánh giá chứng cứ và pháp luật áp dụng.

10. Được cấp trích lục bản án, bản án, quyết định của Tòa án.

11. Kháng cáo, khiếu nại bản án, quyết định của Tòa án theo quy định của Bộ luật này.

12. Đề nghị người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.

13. Chấp hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.

14. Sử dụng quyền của đương sự một cách thiện chí, không được lạm dụng để gây cản trở hoạt động tố tụng của Tòa án, đương sự khác; trường hợp không thực hiện nghĩa vụ thì phải chịu hậu quả do Bộ luật này quy định.

15. Quyền, nghĩa vụ khác mà pháp luật có quy định.

Nguyên đơn có các quyền và nghĩa vụ riêng được quy định tại Điều 71 BLTTDS 2015 bao gồm:

+ Thay đổi yêu cầu khởi kiện; được rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện.

+ Chấp nhận hoặc bác bỏ một phần hoặc toàn bộ yêu cầu phản tố của bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập.

Bị đơn có các quyền và nghĩa vụ riêng được quy định tại Điều 72 BLTTDS 2015 bao gồm:

+ Chấp nhận một phần hoặc bác bỏ một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có các quyền và nghĩa vụ riêng được quy định tại Điều 73 BLTTDS 2015 bao gồm:

+ Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập và yêu cầu độc lập này có liên quan đến việc giải quyết của vụ án thì có các quyền, nghĩa vụ như nguyên đơn. Trường hợp yêu cầu độc lập không được Tòa án chấp thuận để giải quyết trong cùng vụ án thì người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền khởi kiện vụ án khác.

+ Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nếu tham gia tố tụng với bên nguyên đơn hoặc chỉ có quyền lợi thì có các quyền, nghĩa vụ của nguyên đơn.

+ Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nếu tham gia tố tụng với bên bị đơn hoặc chỉ có nghĩa vụ thì có các quyền, nghĩa vụ của bị đơn.

Lời xác nhận sau khi phổ biến quyền và nghĩa vụ:

+ Các đương sự đã nghe rõ quyền và nghĩa vụ của mình chưa?

+ Có cần HĐXX giải thích thêm gì không?

+ Mời nguyên đơn đứng dậy, ông/ bà đã nghe rõ quyền và nghĩa vụ của mình chưa?

Nguyên đơn Thưa HĐXX, tôi đã nghe rõ và không yêu cầu giải thích gì thêm
Chủ toạ Mời chị ngồi, mời bị đơn anh Nguyễn Văn Nguyệt
Nguyễn Văn Nguyệt Thưa HĐXX, tôi đã nghe rõ, tôi không yêu cầu giải thích gì thêm
Chủ toạ Mời anh ngồi
Mời người đại diện theo uỷ quyền của quyền lợi và nghĩa vụ liên quan – bà Nguyễn Văn JMời người đại diện theo uỷ quyền của UBND Thành phố Hải Dương – bà Lê Thị M
Nguyễn Văn J Thưa HĐXX tôi đã nghe rõ, tôi không cần giải thích gì thêm
Lê Thị M Thưa HĐXX tôi đã nghe rõ, tôi không cần giải thích gì thêm
Chủ toạ Mời các bà ngồi

Mời nguyên đơn đứng dậy.
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn: LS Nguyễn Văn G thuộc VPLS A – Đoàn LS TP Hà Nội.
Tại phiên toà hôm nay bà có đồng ý để Luật sư tiếp tục bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình không?

Nguyên đơn Thưa HĐXX, tôi không có yêu cầu thay đổi và tiếp tục nhờ Luật sư Nguyễn Văn G bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho tôi.
Chủ tọa Mời chị ngồi
Mời Bị đơn đứng dậy
Tại phiên tòa ngày hôm nay có LS Nguyễn Văn I – Văn phòng LS B – Đoàn LS TP Hà Nội là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn.
Phía bị đơn có đồng ý để luật sư Nguyễn Văn I tiếp tục bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho mình không?
Nguyễn Văn Nguyệt Thưa HĐXX, tôi không có yêu cầu thay đổi và tiếp tục nhờ Luật sư Nguyễn Văn I bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho tôi.
Chủ tọa Mời anh ngồi.

Mời những người làm chứng đứng dậy
Sau đây tôi phổ biến quyền và nghĩa vụ của người làm chứng tham gia phiên Tòa ngày hôm nay

Theo Điều 78 BLTTDS 2015, tại phiên Tòa ngày hôm nay, người làm chứng có các quyền và nghĩa vụ như sau:

1.     Cung cấp toàn bộ thông tin, tài liệu, đồ vật mà mình có được có liên quan đến việc giải quyết vụ việc.

2.     Khai báo trung thực những tình tiết mà mình biết được có liên quan đến việc giải quyết vụ việc.

3.     Được từ chối khai báo nếu lời khai của mình liên quan đến bí mật nhà nước, bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân, bí mật gia đình hoặc việc khai báo đó có ảnh hưởng xấu, bất lợi cho đương sự là người có quan hệ thân thích với mình.

4.     Được nghỉ việc trong thời gian Tòa án triệu tập hoặc lấy lời khai, nếu làm việc trong cơ quan, tổ chức.

5.     Được thanh toán các khoản chi phí có liên quan theo quy định của pháp luật.

6.     Yêu cầu Tòa án đã triệu tập, cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản và các quyền và lợi ích hợp pháp khác của mình khi tham gia tố tụng; khiếu nại hành vi tố tụng của người tiến hành tố tụng.

7.     Bồi thường thiệt hại và chịu trách nhiệm trước pháp luật do khai báo sai sự thật gây thiệt hại cho đương sự hoặc cho người khác.

8.     Phải có mặt tại Tòa án, phiên tòa, phiên họp theo giấy triệu tập của Tòa án nếu việc lấy lời khai của người làm chứng phải thực hiện công khai tại Tòa án, phiên tòa, phiên họp; trường hợp người làm chứng không đến phiên tòa, phiên họp mà không có lý do chính đáng và việc vắng mặt của họ cản trở việc xét xử, giải quyết thì Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Hội đồng giải quyết việc dân sự có thể ra quyết định dẫn giải người làm chứng đến phiên tòa, phiên họp, trừ trường hợp người làm chứng là người chưa thành niên.

9.     Phải cam đoan trước Tòa án về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình, trừ trường hợp người làm chứng là người chưa thành niên.

Những người làm chứng đã nghe rõ quyền, nghĩa vụ của mình chưa?

Nguyễn Văn N Thưa HĐXX, tôi đã nghe rõ ạ.
Nguyễn Văn O Thưa HĐXX, tôi đã nghe rõ ạ.
Chủ tọa Mời những người làm chứng ngồiBottom of Form
Chủ tọa Giới thiệu thành phần những người tiến hành tố tụng:
Sau đây tôi xin giới thiệu thành phần những người tiến hành tố tụng. Gồm có:1.     Tôi: Nguyễn Văn A – Thẩm phán, Chủ tọa phiên tòa.2.     HTND 1 là bà Nguyễn Văn C.3.     HTND 2 là bà Nguyễn Văn B.4.     Đại diện VKS bà Nguyễn Văn E – Kiểm sát viên – VKSND TP Hải Dương.5.     Thư ký phiên tòa bà Nguyễn Văn D – Cán bộ TAND TP Hải Dương.Các bên đương sự có yêu cầu thay đổi ai trong những người tiến hành tố tụng không?

Mời nguyên đơn

Ng.đơn Thưa Hội đồng xét xử, tôi không có ý kiến gì.
Chủ tọa Mời chị ngồi,
Mời bị đơn có ý kiến
Bị đơn Thưa Hội đồng xét xử, tôi không có ý kiến gì.
Chủ tọa Mời anh ngồi
Mời người đại diện của người có QLNVLQ bà Nguyễn Văn J, bà Lê Thị M
Nguyễn Văn J Thưa Hội đồng xét xử, tôi không có ý kiến gì.
Lê Thị M Thưa Hội đồng xét xử, tôi không có ý kiến gì.
Chủ tọa Mời những người làm chứng đứng dậy. Đề nghị người làm chứng phát biểu lời cam đoan, trung thực, không khai báo gian dối.

Chủ tọa mời lần lượt: NLC Nguyễn Văn N; NLC Nguyễn Văn O.

Nguyễn Văn N Thưa HĐXX, tôi xin cam đoan những lời khai trước tòa của tôi hôm nay là trung thực về những tình tiết mà tôi biết về vụ án, nếu có điều gì gian dối tôi sẽ chịu hoàn toàn trách nhiệm trước pháp luật.
Nguyễn Văn O Thưa HĐXX, tôi xin cam đoan những lời khai trước tòa của tôi hôm nay là trung thực về những tình tiết mà tôi biết về vụ án, nếu có điều gì gian dối tôi sẽ chịu hoàn toàn trách nhiệm trước pháp luật
Chủ tọa Mời những người làm chứng ngồi
Tại phiên tòa hôm nay, các đương sự có ai có yêu cầu cung cấp thêm chứng cứ hay triệu tập thêm người làm chứng không?
Mời nguyên đơn chị Hoàng Thị Hảo
Ng.đơn Thưa HĐXX, tôi không có yêu cầu triệu tập thêm ai và không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ nào khác
Chủ tọa Mời chị ngồi
Mời bị đơn anh Nguyễn Văn Nguyệt
Bị đơn Thưa HĐXX, tôi không có yêu cầu triệu tập thêm ai và không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ nào khác.
Chủ tọa Mời anh ngồi
Mời người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Văn J, và bà Lê Thị M
Nguyễn Văn J Thưa HĐXX, tôi không có yêu cầu triệu tập thêm ai và không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ nào khác.
Lê Thị M Thưa HĐXX, tôi không có yêu cầu triệu tập thêm ai và không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ nào khác.
Chủ tọa Mời nguyên đơn chị Hoàng Thị Hảo đứng dậy
Tại phiên tòa ngày hôm nay chị có thay đổi, bổ sung, rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện không?
Ng.đơn Thưa HĐXX, tôi vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, không có thay đổi hay bổ sung gì
Chủ tọa Mời chị ngồi
Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn và bị đơn có thống nhất với nhau về việc giải quyết vụ án hay không?Mời Nguyên đơn đứng dậy
Ng.đơn Thưa HĐXX chúng tôi thống nhất lý hôn, còn vấn đề nuôi con và chia tài sản thì nhờ Tòa giải quyết
Chủ tọa Mời chị ngồi
Mời bị đơn đứng dậy
Bị đơn Thưa HĐXX chúng tôi thống nhất lý hôn, còn vấn đề nuôi con và chia tài sản thì nhờ Tòa giải quyết
Chủ tọa Các đương sự có ý kiến gì về phần thủ tục bắt đầu phiên tòa không?
Mời nguyên đơn; Mời bị đơn; Mời người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan
Ng.đơn, Bị đơn, Nguyễn Văn J, Lê Thị M Lần lượt trả lời:
Thưa HĐXX, tôi không có ý kiến gì, đề nghị HĐXX tiếp tục làm việc
Chủ tọa Mời ông (bà) ngồi
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn, bị đơn có ý kiến gì về phần thủ tục bắt đầu phiên tòa không?
Mời LS bên phía Nguyên đơn; Mời LS bên phía bị đơn
LS Quyền & LS Đức Lần lượt trả lời:
Thưa HĐXX, chúng tôi không có ý kiến gì,
đề nghị HĐXX tiếp tục làm việc
Chủ tọa Vị đại diện Viện kiểm sát có ý kiến gì về phần thủ tục bắt đầu phiên Tòa hay không?
KSV Thưa HĐXX, phần thủ tục bắt đầu phiên tòa đã được diễn ra theo đúng quy định, tôi không có ý kiến gì thêm, đề nghị Hội đồng xét xử tiếp tục làm việc.
Chủ tọa Không ai có ý kiến gì về phần thủ tục bắt đầu phiên tòa, thay mặt Hội đồng xét xử, tôi tuyên bố kết thúc phần thủ tục bắt đầu phiên tòa, chuyển sang phần tranh tụng
PHẦN TRANH TỤNG
I/ PHẦN TRÌNH BÀY
Chủ tọa: Do các đương sự thống nhất với nhau về ly hôn, không thỏa thuận được với nhau về nuôi con và phân chia tài sản, đây là nội dung của việc giải quyết vụ án, vì vậy
Mời người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trình bày về yêu cầu và chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của nguyên đơn.
LSND Trình bày ý kiến:
Nguyễn Văn G

 

Kính thưa HĐXX, ngày hôm nay tôi là LS Nguyễn Văn G thuộc VPLS A – Đoàn LS TP Hà Nội, tham dự phiên tòa hôm nay với tư cách là LS bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho chị Hoàng Thị Hảo là nguyên đơn trong vụ kiện.

Thay mặt cho thân chủ, tôi xin trình bày nội dung vụ việc và yêu cầu của thân chủ tôi như sau:

Nguyên đơn là chị Hoàng Thị Hảo và anh Nguyệt đăng ký kết hôn trên cơ sở tự nguyện vào ngày 26/03/1999 tại UBND xã Thượng Đạt, TP. Hải Dương, tỉnh Hải Dương. Sau khi kết hôn, anh chị chung sống hạnh phúc được khoảng hơn 02 năm thì phát sinh mâu thuẫn do tính tình không hợp, anh Nguyệt hay chơi bời, chửi bới và đánh đập chị Hảo. Vợ chồng anh chị đã sống ly thân hơn 01 năm nay.

Giữa 2 anh chị có 2 con chung là cháu Nguyễn Thị Nhi, sinh ngày 04/01/2000 và cháu Nguyễn Đức Anh, sinh ngày 13/06/2007. Tại phiên tòa ngày hôm nay chị Hoàng Thị Hảo đề nghị chia tài sản chung là 01 thửa đất số 496, tờ bản đồ số 01, diện tích 216m2 tại xã Thượng Đạt, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương.

Tài sản trên đất bao gồm 01 nhà cấp bốn có diện tích 18m2, 01 gian bếp và 01 nhà vệ sinh có diện tích 10m2, 01 giếng, 01 bể nước 1,6m3 theo phương thức chia đôi bằng hiện vật, không yêu cầu chia tài sản trên đất.
Tại phiên tòa ngày hôm nay, Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, do đó tôi kính đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận các yêu cầu sau của chị Hoàng Thị Hảo:

1.     Yêu cầu ly hôn với anh Nguyễn Văn Nguyệt;

2.     Yêu cầu được nuôi hai con chung là cháu Nguyễn Thị Nhi và cháu Nguyễn Đức Anh, không yêu cầu anh Nguyệt cấp dưỡng.

3.     Chia đôi tài sản bằng hiện vật là thửa đất số 496, tờ bản đồ số 1, có diện tích là 216 m2 tại xã Thượng Đạt, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương.

Những tài liệu chứng minh cho yêu cầu khởi kiện là hợp pháp:

+ Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn ngày 26/03/1999

+ Sổ hộ khẩu gia đình số 270056469

+ Giấy Khai sinh của cháu Nhi số 73 quyển số 2014

+ Giấy Khai sinh của cháu Đức Anh số 38 quyển số 2007

+ Đơn đề nghị của cháu Nhi

+ Đơn đề nghị của cháu Đức Anh

+ Biên bản tự khai của Nguyên đơn.

Trên đây là phần trình bày ý kiến của bên nguyên đơn.
Mời HĐXX tiếp tục làm việc.

Chủ tọa:

 

+ Mời Nguyên đơn chị Hoàng Thị Hảo đứng dậy

+ Sau khi nghe vị Luật sư trình bày chị có bổ sung thêm ý kiến gì không?

Nguyên đơn: Thưa HĐXX, tôi hoàn toàn đồng ý với phần trình bày của luật sư và không có ý kiến gì thêm.
Chủ tọa:

 

+ Mời chị ngồi

+ Mời người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Bị đơn trình bày ý kiến của bị đơn đối với yêu cầu của nguyên đơn

Nguyễn Văn I

 

Trình bày ý kiến:
Kính thưa Hội đồng xét xử, tôi là LS Nguyễn Văn I thuộc VP LS B – Đoàn LS TP Hà NộiNhận được yêu cầu của anh Nguyễn Văn Nguyệt và được sự chấp thuận từ phía Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương, hôm nay tôi tham dự phiên tòa với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn là anh Nguyễn Văn Nguyệt trong vụ án “Tranh chấp ly hôn, nuôi con, chia tài sản” thụ lý số 20/TLST-HNGĐ ngày 06/01/2016 giữa nguyên đơn là chị Hoàng Thị Hảo và bị đơn là anh Nguyễn Văn Nguyệt.Sau đây, tôi xin được thay mặt trình bày ý kiến của thân chủ tôi – anh Nguyễn Văn Nguyệt – đối với các yêu cầu của nguyên đơn như sau:Thứ nhất, đối với yêu cầu ly hôn:
Bên phía bị đơn đồng tình với phần trình bày của đại diện nguyên đơn về vấn đề mối quan hệ hôn nhân hợp pháp của hai anh chị. Thân chủ tôi xác nhận hai vợ chồng đã sống ly thân trong một khoảng thời gian dài, tình cảm vợ chồng nay đã không còn. Vì vậy, thân chủ tôi đồng ý ly hôn với chị Hảo.Thứ hai, về con chung:
Thân chủ tôi không đồng ý để chị Hảo nuôi cả 2 con vì thân chủ tôi cho rằng, với hoàn cảnh hiện tại của mình, chị Hảo không đủ điều kiện để nuôi dạy thật tốt cho cả 2 con, chị Hảo hiện còn không cho cháu Nhi đi học cấp 3. Vì vậy, anh Nguyệt đề nghị giao cháu Nhi cho chị Hảo và cháu Đức Anh cho anh Nguyệt nuôi, không ai phải cấp dưỡng nuôi con cho ai.Thứ ba, về tài sản chung:
Thân chủ tôi không đồng ý với quan điểm của phía nguyên đơn cho rằng thửa đất số 496, tờ bản đồ số 01, diện tích 216m², địa chỉ tại: xã Thượng Đạt, huyện Nam Sách (nay là thành phố Hải Dương), tỉnh Hải Dương là tài sản chung của 2 vợ chồng. Bởi lẽ, nguồn gốc thửa đất này là do bố mẹ vợ anh em của anh Nguyệt đồng góp tiền mua tại UBND xã Thượng Đạt vào năm 1994. Do đó, phía bị đơn đề nghị tòa bác yêu cầu chia đôi thửa đất trên của chị Hảo, đồng thời huỷ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên anh Nguyệt và chị Hảo để làm thủ tục cấp lại cho bà Thoa và ông Cang.Những tài liệu chứng minh Bị đơn cung cấp bao gồm:

+ Thư của bà Nguyễn Thị Thoa (Bút lục 143 – 145);

+ GCN QSDĐ số AC382972 do UBND huyện Nam Sách, Tỉnh Hải Dương cấp ngày 31/12/2005 (Bút lục 08 – 11);

+ Đơn đề nghị ngày 25/1/2016 của cháu Nguyễn Đức Anh (Bút lục 32);

+ Biên bản số 24/BB-UBND ngày 08/06/2016 của UBND xã Thượng Đạt xét duyệt nguồn gốc sử dụng đất của hộ anh Nguyễn Văn Nguyệt và chị Hoàng Thị Hảo (Bút lục 137);

Bản tự khai của bị đơn (BL24-25)

Trên đây là toàn bộ quan điểm của tôi, xin chân thành cảm ơn HĐXX và quý vị có mặt tại phiên toà đã lắng nghe!

Chủ tọa + Mời Bị đơn anh Nguyễn Văn Nguyệt đứng dậy
+ Sau khi nghe vị Luật sư trình bày anh có bổ sung thêm ý kiến gì không? 
Nguyễn Văn Nguyệt + Thưa HĐXX, tôi hoàn toàn đồng ý với phần trình bày của luật sư và không có thêm ý kiến gì cả.

 

Chủ tọa + Mời anh ngồi
+ Mời người đại diện theo uỷ quyền của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Văn J trình bày ý kiến đối với yêu cầu đề nghị của nguyên đơn và bị đơn
Nguyễn Văn J Kính thưa HĐXX,
Bà Nguyễn Thị Thoa là mẹ ruột của anh Nguyễn Văn Nguyệt. Tôi xin trình bày ý kiến về quyền sử dụng thửa đất số 496, tờ bản đồ số 01, diện tích 216m², có địa chỉ tại xã Thượng Đạt, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương.Nguồn gốc mảnh đất này là do bà Thoa và 2 con là Quyết và Chuyển chuyển góp tiền mua và bà Thoa là người trực tiếp nộp tiền. Bà Thoa không có văn bản hay giấy tờ nào thể hiện việc cho 2 vợ chồng anh Nguyệt chị Hảo mảnh đất này. Tôi yêu cầu huỷ GCNQSDĐ đã cấp cho anh Nguyệt và chị Hảo.
Chủ tọa Mời bà ngồi
Mời người đại diện theo uỷ quyền của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Lê Thị M trình bày ý kiến đối với yêu cầu đề nghị của nguyên đơn và bị đơn
Lê Thị M Kính thưa HĐXX, đối với yêu cầu đề nghị của nguyên đơn và bị đơn, tôi có ý kiến như sau:
Sau khi kiểm tra, rà soát, UBND xác định việc cấp giấy CNQSDĐ cho hộ gia đình anh Nguyệt và chị Hảo là đúng quy định của pháp luật, vì thế UBND không chấp nhận yêu cầu huỷ giấy CNQSDĐ đứng tên anh Nguyệt và chị Hảo. Trên đây là toàn bộ quan điểm của tôi!
II/ PHẦN HỎI
PHẢN HỒI CỦA LUẬT SƯ CỦA NGUYÊN ĐƠN
Chủ tọa: Chúng ta đã nghe ý kiến trình bày của các đương sự, sau đây, HĐXX tiến hành thủ tục xét hỏi tại phiên tòa.
Mời nguyên đơn chị Hoàng Thị Hảo tham gia hỏi
Hoàng Thị Hảo: Thưa HĐXX, tôi ủy quyền cho Luật sư của tôi tham gia hỏi
Chủ tọa: Mời Nguyên đơn ngồi
Mời Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn tham gia hỏi
LSNĐ: Thưa HĐXX, tôi đề nghị được hỏi nguyên đơn
Chủ tọa: Mời nguyên đơn đứng dậy
LSNĐ: Vì sao chị Hảo lại quyết định ly hôn?
Hoàng Thị Hảo: Thưa HĐXX, sau 2 năm chung sống hạnh phúc, vợ chồng thường xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do anh Nguyệt hay chơi bời, thường xuyên tranh cãi, đánh đập và đuổi tôi ra khỏi nhà, do không chịu đựng được nữa nên tôi đã về nhà mẹ đẻ ở và ly thân 1 năm nay. Trước khi quyết định ly hôn, tôi đã đề nghị UBND xã hòa giải cho 2 vợ chồng nhưng anh Nguyệt không có mặt. Điều này mọi người xung quanh và chính quyền xã đều biết.
LSNĐ: Chị cho biết hiện tại chị đang làm việc ở đâu, mức thu nhập hàng tháng của chị là bao nhiêu?
Hoàng Thị Hảo: Hiện nay tôi đang làm công nhân của công ty Trần An, công việc có thu nhập ổn định từ 4 – 6 triệu đồng; tháng có tăng ca là 7 triệu, đảm bảo cuộc sống cho 3 mẹ con được.
LSNĐ: Trong trường hợp ly hôn nếu chị bận công việc ai có thể hỗ trợ chị chăm sóc các con?
Hoàng Thị Hảo: Tôi đang sống ở nhà ngoại, bố mẹ tôi còn khỏe mạnh và có lương hưu, chỉ có 2 ông bà ở nhà nên mẹ con tôi luôn được ở nhà ngoại ổn định, tôi có chỗ ở đảm bảo lâu dài để chăm sóc cả 2 cháu.
LSNĐ: Cháu Đức Anh có nói gì về thời gian cháu sống với bố không? Mỗi lần gặp chị, cháu Đức Anh bị bố đánh, vì sao chị có được thông tin này?
Hoàng Thị Hảo: Cháu Đức Anh bảo sống với bố không được thoải mái, vì bố hay đi chơi nhiều, không ở nhà với cháu, ông bà thì cũng ốm yếu, các bác thì lo cho gọi riêng nên không ai để ý cháu. Tôi có được thông tin cháu Đức Anh bị bố đánh là vì nhìn thấy các vết bầm trên tay và trên người con tôi mỗi lần gặp, tôi gặng hỏi thì cháu trả lời như vậy, tôi cũng hỏi hàng xóm thì mọi người cũng có chứng kiến và kể cho tôi nghe.
LSNĐ Khi biết vợ chồng chị được GCNQSDĐ, gia đình bên nhà anh Nguyệt có ai có ý kiến gì không?
Hoàng Thị Hảo Gia đình anh Nguyệt đều biết, không có ai có ý kiến gì
LSNĐ Trong quá trình ở trên diện tích đất, anh chị đã tôn tạo và xây dựng những gì? Ai là người bỏ tiền ra tôn tạo và xây dựng?
Hoàng Thị Hảo Trong quá trình chung sống chúng tôi có bỏ tiền ra xây dựng một căn nhà cấp 4 và công trình phụ.
LSNĐ Thưa HĐXX, tôi không còn câu hỏi nào thêm đối với Nguyên đơn
Tôi đề nghị được hỏi bị đơn anh Nguyễn Văn Nguyệt
Chủ tọa Mời bị đơn đứng dậy
LSNĐ Theo như thông tin Chị Hảo cung cấp anh có hành vi đánh chị Hảo, lý do vì sao?
Bị đơn Thưa HĐXX Tôi chưa từng đánh chị Hảo, thậm chí còn bị chị Hảo cùng gia đình chị Hảo gây sức ép, đập phá và dọa thuê đầu gấu giết tôi
LSNĐ Vậy anh có thường xuyên chơi bài, uống rượu không? Anh chỉ cần trả lời có hoặc không?
Bị đơn Tôi không
LSNĐ Anh có cho cháu Đức Anh gặp mẹ không?
Bị đơn Tôi không cấm con trai tôi gặp mẹ nó. Tuy nhiên nếu chị Hảo muốn gặp con thì về nhà tôi mà gặp. Tôi không cho phép con mình đi đường xa xôi để gặp mẹ. Như vậy là nguy hiểm cho cháu. Việc 2 mẹ con không được gặp nhau là do chị Hảo tự ý bỏ về nhà ngoại chứ không phải do tôi.
LSNĐ Từ khi cháu Nhi về sống với chị Hảo, anh đã về gặp con lần nào chưa?
Bị đơn Tôi chỉ gọi điện hỏi thăm cháu và được biết hiện cháu không được đi học, cháu Nhi là con gái, đang tuổi lớn nên ít tâm sự với bố.
LSNĐ Ai là người kê khai cấp GCNQSDĐ đối với thửa 496?
Bị đơn Tôi không làm đơn gửi đến xã Thượng Đạt đề nghị được cấp GCN QSDĐ. Năm 2005, UBND xã và huyện tự làm GCN QSDĐ đứng tên 2 vợ chồng tôi và gọi tôi lên nhận.
LSNĐ Việc anh chị được cấp GCNQSDĐ những thành viên khác trong gia đình anh có ai biết không? Họ có ý kiến phản đối gì hay tranh chấp gì hay không?
Bị đơn Mọi người đều không biết điều này. Nếu là để 2 vợ chồng tôi sinh sống thì mọi người đều đồng ý. Tuy nhiên, khi xảy ra việc ly hôn giữa tôi và chị Hảo thì mọi người đều phản đối và nhất trí việc đòi lại mảnh đất cho gia đình tôi.
LSNĐ Tóm lại, đã kê khai cấp GCNQSDĐ đối với thửa 496 và được UBND xã cấp GCNQSDĐ, sau đó mọi người trong gia đình anh đều biết và không ai có tranh chấp, ý kiến gì. Anh còn ý kiến nào khác không?
Bị đơn Các ý kiến tôi đã nói ở trên, tôi không còn ý kiến gì
LSNĐ Thưa HĐXX, tôi không còn câu hỏi nào thêm đối với Bị đơn
Tôi đề nghị được hỏi người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Văn J
Chủ tọa Mời bị đơn ngồi
Mời bà Nguyễn Văn J đứng dậy
LSNĐ Có phải bà Thoa đã cho vợ chồng anh Nguyệt chị Hảo thửa đất số 496 tờ bản đồ số 01 nên mới để cho anh Nguyệt và chị Hảo đứng tên trên GCNQSDĐ không?
Nguyễn Văn J Gia đình bà Thoa chỉ cho vợ chồng anh Nguyệt chị Hảo mượn đất làm nhà để ở trên mảnh đất này. Bà Thoa nghĩ giấy chứng nhận đó là giấy chứng nhận cấp cho tài sản vợ chồng anh Nguyệt đã xây dựng trên đất.
LSNĐ Khi anh Nguyệt và chị Hảo được cấp GCNQSDĐ, bà Thoa có ý kiến gì không?
Nguyễn Văn J Khi anh Nguyệt và chị Hảo được UBND xã Thượng Đạt cấp GCNQSDĐ thì bà Thoa không biết. Khi anh Nguyệt đi thế chấp giấy chứng nhận quyền sử  dụng đất với ngân hàng thì bà Thoa mới biết. Khi đó, bà Thoa không có ý kiến vì lúc đó bà nghĩ là thế chấp giấy chứng nhận cấp cho tài sản vợ chồng anh Nguyệt đã xây dựng trên đất.
LSNĐ Từ sau khi cho đất, cụ thể là sau năm 1999 đến nay bà Thoa có thực hiện nghĩa vụ nộp thuế đất cho thửa đất này không?
Nguyễn Văn J Anh Nguyệt và chị Hảo là người nộp thuế
LSNĐ Việc vợ chồng chị Hảo xây nhà trên thửa đất 496, bà Thoa có ý kiến gì không?
Nguyễn Văn J Bà Thoa không có ý kiến gì
LSNĐ Thưa HĐXX, tôi không còn câu hỏi nào thêm đối với Bị đơn
Tôi đề nghị được hỏi người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Lê Thị M
Chủ tọa Mời bà Nguyễn Văn J ngồi
Mời bà Lê Thị M đứng dậy
LSNĐ Đại diện phía UBND TP. Hải Dương cho biết nguyên nhân cấp GCNQSDĐ đất cùng lúc cho 30 hộ gia đình tại xã Thượng Đạt là gì?
Lê Thị M Trong giai đoạn năm 1991–1996, UBND xã Thượng Đạt có bán khu đất ở có thu tiền trái thẩm quyền lấy tiền xây dựng trụ sở UBND xã và trường mầm non cho 30 hộ gia đình là thùng vùng (đất ao). Trong đó, có hộ gia đình anh Nguyệt chị Hảo nằm trong diện đó ở khu vực đầm 3, đất thụt sâu khoảng 2m. Ngày 10/8/2001 có biên bản xét duyệt của hội đồng xử lý những thiếu sót tồn tại trong việc giao đất cho dân làm nhà ở, thu tiền sử dụng đất xây dựng cơ bản của xã Thượng Đạt. Căn cứ vào hồ sơ được lập, Hội đồng đã duyệt hợp thức hóa cho 30 hộ gia đình trong đó có gia đình anh Nguyệt, chị Hảo.
LSNĐ Quy trình cấp giấy chứng nhận cho vợ chồng anh Nguyệt chị Hảo được thực hiện đúng quy định pháp luật hay không?
Lê Thị M Tôi xác định GCNQSDĐ cấp cho vợ chồng anh Nguyệt chị Hảo đã được thực hiện đúng quy định pháp luật đất đai. Khi cấp GCNQSDĐ cho các hộ dân, UBND huyện Nam Sách khi thực hiện việc cấp GCNQSDĐ có thực hiện việc thông báo và niêm yết công khai theo đúng quy định của pháp luật một cách đầy đủ.
LSNĐ Thưa HĐXX, tôi không còn câu hỏi nào thêm đối với Người có quyền và nghĩa vụ liên quan
Tôi đề nghị được hỏi người làm chứng ông Nguyễn Văn N
Chủ tọa Mời ông Thái đứng dậy
LSNĐ Sau khi vợ chồng chị Hảo được cấp GCNQSDĐ, UBND xã có nhận được bất kỳ thư khiếu nại nào từ việc cấp không?
Nguyễn Văn N Thưa HĐXX, không hề có bất cứ đơn thư khiếu nại nào.
LSNĐ: Trong suốt quá trình sinh sống trên thửa đất, vợ chồng chị Hảo có tranh chấp gì không? Có biến động gì về đất không?
Nguyễn Văn N: Không có bất kỳ tranh chấp gì.
LSNĐ: Kính thưa HĐXX, tôi muốn đặt câu hỏi cho cháu Nguyễn Đức Anh.
Chủ tọa: Mời Bà Bích ngồi. Cháu Nguyễn Đức Anh đứng dậy.
LSNĐ: Ban đầu cháu có làm và gửi đơn đề nghị tới Tòa nếu bố mẹ cháu ly hôn thì cháu muốn được ở với mẹ đúng không?
Đức Anh: Đúng ạ.
LSNĐ: Tại sao sau đấy cháu lại thay đổi và làm lại đơn đề nghị nếu bố mẹ cháu ly hôn thì cháu muốn được ở với bố?
Đức Anh: Lúc đó bố cháu biết được mong muốn của cháu trong đơn đề nghị lần thứ nhất là muốn được ở với mẹ, lên rất tức giận ông ý đã la mắng cháu, còn hù dọa cháu nếu qua ở với mẹ, mẹ cháu sẽ không cho cháu đi học như chị cháu ạ. Cháu rất sợ nên cháu làm đơn đề nghị khác để đề nghị được ở với bố ạ.
LSNĐ: Lúc đó bố cháu có đánh cháu không?
Đức Anh: Lúc đó bố cháu chỉ la mắng cháu thôi ạ.
LSNĐ: Tại sao trong biên bản lời khai tại Tòa cháu lại thay đổi quyết định và mong muốn được ở với mẹ?
Đức Anh: Dạ, là do mẹ cháu có đến gặp cháu rồi hứa rằng, nếu cháu về ở với mẹ, mẹ sẽ không ép cháu phải nghỉ học ạ.
LSNĐ: Mẹ cháu có thường đến thăm cháu không?
Đức Anh: Dạ, có ạ.
LSNĐ: Bố cháu có ngăn cản cháu gặp mẹ không?
Đức Anh: Dạ, có ạ bố cháu không thích việc cháu gặp mẹ ạ.
LSNĐ: Cháu có thích được ở với chị Nhi, mẹ và bà ngoại không?
Đức Anh: Dạ có ạ.
LSNĐ: Thưa HĐXX tôi không còn câu hỏi nào thêm.
Đề nghị HĐXX tiếp tục làm việc.

PHẦN HỎI CỦA LUẬT SƯ CỦA BỊ ĐƠN

Chủ tọa: Mời Bị đơn anh Nguyễn Văn Nguyệt tham gia hỏi.
Bị đơn: Thưa HĐXX, tôi ủy quyền cho Luật sư của tôi tham gia hỏi.
Chủ tọa: Mời Bị đơn ngồi.
Mời Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn tham gia hỏi.
LS Đức: Thưa HĐXX, tôi đề nghị được hỏi nguyên đơn.
Chủ tọa:. Mời nguyên đơn đứng dậy.
LS Đức: Tại sao khi vợ chồng xảy ra mâu thuẫn, chị không ở lại cùng chồng giải quyết mâu thuẫn mà lại bỏ về nhà mẹ để ở?
Hoàng Thị Hảo: Thưa HĐXX, mỗi lần vợ chồng có tranh cãi là anh Nguyệt lại đánh đập tôi, xúc phạm tôi, ngoài ra anh Nguyệt còn đuổi tôi đi, nên tôi buộc phải về nhà mẹ để ở.
LS Đức: Vậy trong khoảng thời gian chị bỏ về nhà mẹ để như vậy thì ai là người chăm sóc 2 bé Nhi và Đức Anh?
Hoàng Thị Hảo: Tôi mang cháu Nhi đi để chăm sóc cháu, cháu Đức Anh vì anh Nguyệt dọa nếu mang cả cháu Đức Anh đi thì sẽ đánh đập cả 3 mẹ con và không để yên cho gia đình bên ngoại nếu 3 mẹ con về ở, nên tôi phải đành để Đức Anh lại.
LS Đức: Chị cho biết vì sao chị không cho cháu Nhi đi học cấp 3?
Hoàng Thị Hảo: Cháu Nhi vẫn đi học cấp 3 và tôi vẫn có đủ điều kiện để nuôi 2 con ăn học đầy đủ, tôi chỉ trao đổi với các con, nếu các con ngoan và chăm chỉ học hành thì mới được học cấp 3 để các con có ý chí chăm học hơn thôi và Nguyệt cũng hay nói xấu tôi với các con rằng tôi không cho các con đi học để chia cách tôi và các con. Nên cháu Đức Anh cũng sợ và nghĩ như thế.
LS Đức: Chị Hảo cho biết, hiện tại chị đang sinh sống ở đâu?
Hoàng Thị Hảo: Hiện tại tôi đang ở nhờ nhà bố mẹ đẻ của tôi.
LS Đức: Ngoài mức lương chính từ 4 – 6 triệu đồng/tháng ra thì chị có thêm nguồn thu nhập nào khác không?
Hoàng Thị Hảo: Ngoài mức lương công nhân, tôi còn bán hàng online để thêm thu nhập, 1 tháng tôi bán hàng được thêm khoảng 1,5 triệu đồng.
LS Đức: Chị có biết nguồn gốc của thửa đất số 496, tờ bản đồ số 1 là của ai không?
Hoàng Thị Hảo: Nguồn gốc của thửa đất này trước đây là do gia đình chồng tôi đông con nên được mua 1 thửa đất của hợp tác xã. Ai là người trả tiền và số tiền là bao nhiêu thì tôi không biết vì lúc đó tôi chưa lấy anh Nguyệt.
LS Đức: Vậy, bố mẹ anh Nguyệt có tặng cho vợ chồng anh chị thửa đất số 496 này không? Có văn bản nào xác nhận về việc cho tặng này không?
Hoàng Thị Hảo: Bố mẹ chồng tôi có nói cho vợ chồng tôi thửa đất đó để làm nhà ở riêng nhưng chỉ nói miệng, không viết thành giấy tờ gì, có anh chị em trong nhà biết với nhau chứ người ngoài không biết.
LS Đức: Chị và anh Nguyệt cùng nhau làm thủ tục kê khai để xin cấp GCN QSDĐ có đúng không?
Hoàng Thị Hảo: Tôi không nhớ rõ lắm, nhưng hình như là đợt đó thì anh Nguyệt có đứng ra kê khai làm thủ tục cấp.
LS Đức: Thưa HĐXX, tôi đã hết câu hỏi với nguyên đơn, đề nghị được hỏi bị đơn.
Chủ tọa: Mời nguyên đơn ngồi
Mời bị đơn đứng dậy
LS Đức: Anh Nguyệt cho biết, mâu thuẫn vợ chồng phát sinh từ khi nào và vì lý do gì?
Bị đơn: Vợ chồng tôi về chung sống với nhau được khoảng 3 tháng thì phát sinh mâu thuẫn do vợ tôi rất hay ghen. Hễ vợ chồng cãi nhau là cô ấy lại bỏ về nhà bố mẹ ở.
LS Đức: Anh cho biết, trong thời gian vợ chồng chung sống, ai là trụ cột kinh tế của gia đình?
Bị đơn: Tôi là trụ cột chính trong gia đình. Cô Hảo cũng có góp tiền cho việc chi tiêu chung của gia đình.
LS Đức: Thu nhập hiện tại của anh là bao nhiêu?
Bị đơn: Thu nhập hiện tại của tôi là 5 triệu/tháng, ngoài ra tôi còn có khoản thu ổn định từ 3 – 4 triệu/tháng từ việc thực hiện canh tác, chăn nuôi trên mảnh đất 1.965m² thuê khoán của UBND xã. Tổng thu nhập là khoảng 8 triệu đồng.
LS Đức: Anh cho biết nguồn gốc thửa đất số 496, tờ bản đồ số 01?
Bị đơn: Nguồn gốc thửa đất này là do bố mẹ tôi và anh tôi đóng góp mua của UBND xã Thượng Đạt năm 1994.
LS Đức: Thưa HĐXX, tôi hết câu hỏi đối với bị đơn. Tôi đề nghị hỏi người đại diện theo uỷ quyền của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Văn J
Chủ toạ: Mời bị đơn ngồi.
Mời bà Nguyễn Văn J đứng dậy.
LS Đức: Bà cho biết, có đúng là bà Thoa cùng chồng và các con trai đã góp tiền mua thửa đất số 496 của UBND xã Thượng Đạt năm 1994 không?
Nguyễn Văn J Thưa HĐXX, đúng như vậy, bà Thoa là người bốc thăm mua trúng khu đất này, các con bà Thoa là người góp tiền còn bà là người trực tiếp đi nộp tiền mua đất cho UBND xã.
LS Đức: Bà Thoa và chồng có lập văn bản nào để tặng cho vợ chồng anh Nguyệt, chị Hảo thửa đất số 496 nói trên không?
Nguyễn Văn J: Không hề có việc vợ chồng bà Thoa tặng cho vợ chồng anh Nguyệt, chị Hảo thửa đất. Vì gia đình đông người, để các con sống chung một nhà sẽ bất tiện nên vợ chồng bà Thoa thống nhất cho anh chị ấy ra xây nhà ở nhờ trên phần đất của vợ chồng bà.
LS Đức: Bà có biết về quá trình UBND huyện Nam Sách thực hiện thủ tục cấp GCN QSDĐ cho anh Nguyệt, chị Hảo không?
Nguyễn Văn J: Bà Thoa không biết và cũng không hề được thông báo gì về việc UBND cấp sổ đỏ cho mảnh đất của gia đình bà.
LS Đức: Vậy, bà có biết về Quyết định 563/2002/QĐ-UB của UBND huyện Nam Sách và danh sách cấp GCN QSDĐ cho 30 hộ gia đình của UBND xã Thượng Đạt trong đó bao gồm thửa đất số 496 cấp cho anh Nguyệt, chị Hảo không?
Nguyễn Văn J: Bà Thoa không biết về những cái này.
LS Đức: Thưa HĐXX tôi đã hết câu hỏi với bà Nguyễn Văn J, tôi đề nghị được hỏi Đại diện UBND bà Lê Thị M
Chủ tọa: Mời bà Nguyễn Văn J ngồi.
Mời bà Lê Thị M đứng dậy
LSĐB Đức: Bà Hoàng Thị Thu Hà cho biết UBND huyện Nam Sách căn cứ vào đâu để cấp GCN QSDĐ cho anh Nguyệt, chị Hảo?
Lê Thị M: UBND: Đầu năm 2001 UBND xã làm các thủ tục đề nghị cấp trên cấp GCN QSDĐ cho các hộ gia đình. Ngày 25/01/2001 30 hộ dân đã có đơn đề nghị cấp GCN QSDĐ trong đó có gia đình anh Nguyệt, chị Hảo nhưng đến nay đã bị thất lạc hồ sơ. Cán bộ địa chính khi đó là tôi đã trực tiếp xuống nhà các hộ dân đo đạc, xác minh hiện trạng có chữ ký xác nhận của chủ sử dụng đất là anh Nguyệt, chị Hảo.
LSĐB Đức: Hồ sơ về việc đề nghị cấp GCNQSDĐ đã bị thất lạc, vậy căn cứ vào đâu mà ông khẳng định trong 30 hộ dân có đơn đề nghị cấp GCN QSDĐ có đơn đề nghị của anh Nguyệt?
Lê Thị M: Việc cấp giấy theo trình tự thủ tục và có đơn yêu cầu nên UBND mới cấp và UBND có cử địa chính xuống đo đạc rồi mới cấp GCNQSDĐ
LSĐB Đức: Thưa HĐXX tôi đã hết câu hỏi với bà Lê Thị M, tôi đề nghị được hỏi người làm chứng
Chủ tọa: Mời bà Lê Thị M ngồi xuống
Mời người làm chứng Nguyễn Văn O đứng dậy
LS Đức: Ông cho biết nguồn gốc của thửa đất số 496, tờ bản đồ số 01 tại xã Thượng Đạt?
Nguyễn Văn O: Thưa HĐXX, thửa đất này là đất của gia đình tôi, do bố mẹ và anh em tôi góp tiền mua của UBND xã Thượng Đạt từ năm 1994.
LS Đức: Vậy ông có tham gia vào quá trình đóng góp để mua thửa đất số 496 không? Nếu có thì ông cho biết số tiền cụ thể?
Nguyễn Văn O: Tôi có tham gia đóng góp để mua thửa đất số 496 nói trên với số tiền là 1.000.000đ, số còn lại do em Chuyền và bố mẹ tôi đóng góp.
LS Đức: Ông có biết việc anh Nguyệt kê khai thực hiện thủ tục xin cấp GCN QSDĐ không?
Nguyễn Văn O: Tôi và cả gia đình đều không biết gì.
LS Đức: Thưa HĐXX, tôi đã hết câu hỏi với ông Quyết, đề nghị được hỏi người làm chứng Nguyễn Văn Bích.
Chủ tọa: Mời ông Quyết ngồi.
LS Đức: Ông xác nhận bà Thoa là người nộp tiền mua thửa đất số 496 có đúng không?
Nguyễn Văn N: Thưa HĐXX, đúng như vậy.
LS Đức: Trong quá trình cấp GCN QSDĐ tại thửa đất số 496, tờ bản đồ số 01 tại xã Thượng Đạt thì các ông có xác minh nguồn gốc đất không?
Nguyễn Văn N: Trên thực tế, chúng tôi không tiến hành việc xác minh nguồn gốc các thửa đất của 30 hộ gia đình mà chỉ cấp theo hiện trạng sử dụng đất.
LS Đức:

 

Khi các ông cấp GCN QSDĐ cho anh Nguyệt, chị Hảo thì có văn bản nào thể hiện việc anh Nguyệt, chị Hảo được nhận chuyển nhượng hay được tặng cho QSDĐ không?
Nguyễn Văn N: Vì trong quá trình chuyển đổi địa giới hành chính, hồ sơ cấp GCN QSDĐ tại thửa đất số 496, tờ bản đồ số 01 tại xã Thượng Đạt từ huyện Nam Sách sang thành phố Hải Dương, hồ sơ cấp GCN QSDĐ đang bị thất lạc chưa tìm thấy nên tôi không biết là có văn bản chuyển nhượng tặng cho QSDĐ nào không. Tuy nhiên theo tôi nhớ là không có.
LS Đức: Tôi đề nghị được hỏi cháu Nguyễn Thị Nhi.
Khi ở với mẹ thì mẹ có tạo điều kiện cho cháu đi học không?
Cháu Nhi: Có ạ.
LS Đức: Vậy tại sao cháu lại quyết định nghỉ học?
Cháu Nhi: Cháu thấy việc đi học đối với cháu rất khó và áp lực, cháu không theo kịp nữa nên quyết định nghỉ ạ.
LS Đức: Trường hợp bố mẹ ly hôn cháu muốn sống cùng với ai?
Cháu Nhi: Cháu muốn sống cùng với mẹ ạ!
LS Đức: Tôi đề nghị được hỏi cháu Nguyễn Đức Anh.
Bố có thường xuyên dành thời gian chăm lo cho cháu không?
Đức Anh: Có ạ
LS Đức: Thưa HĐXX, tôi không còn câu hỏi gì thêm.
Đề nghị HĐXX tiếp tục làm việc
Chủ tọa: Mời ông Bích ngồi
Mời người đại diện của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Ngọc Mai tham gia phần hỏi
Nguyễn Văn J: Thưa HĐXX tôi không có câu hỏi gì, đề nghị HĐXX tiếp tục làm việc
Chủ tọa: Các đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự, những người tham gia tố tụng khác, có ai có yêu cầu hỏi thêm không?
{……} im lặng một chút… nói tiếp….
PHẦN PHẢN HỒI CỦA HĐXX:
Chủ tọa: Xét thấy một số nội dung chưa rõ, sau đây HĐXX sẽ tiến hành làm rõ thêm một số nội dung;
Chủ tọa: Mời nguyên đơn đứng dậy
Chị cho HĐXX biết kể từ khi ly thân đến nay tình trạng chị với anh Nguyệt như thế nào, có còn qua lại hay hỏi thăm nhau gì không?
Nguyên đơn: Thưa HĐXX Chúng tôi không còn qua lại với nhau nữa, tôi có sang gặp thì thăm cháu Đức Anh thôi
Chủ tọa: Hàng tháng chi phí học tập, sinh hoạt của cháu Nhi và cháu Đức Anh là khoảng bao nhiêu?
Nguyên đơn: Thưa HĐXX, chi phí tùy tháng, có tháng nhiều tháng ít, nhưng vì ở nông thôn nên cũng không tốn kém lắm. Tôi không nhớ chính xác là bao nhiêu, nhưng tôi chắc chắn với điều kiện của mình hoàn toàn đủ để lo cho cả hai cháu.
Chủ tọa: Nếu được quyền nuôi dưỡng con chung, chị có tạo điều kiện cho anh Nguyệt gặp con không?
Nguyên đơn: Thưa HĐXX, khi nào anh ấy muốn thăm con, anh ấy đều có thể đến gặp con
Chủ tọa: Hàng tháng chi phí học tập, sinh hoạt của cháu Nhi và cháu Đức Anh là khoảng bao nhiêu?
Nguyên đơn: Thưa HĐXX, chi phí tùy tháng, có tháng nhiều tháng ít, nhưng vì ở nông thôn nên cũng không tốn kém lắm. Tôi không nhớ chính xác là bao nhiêu, nhưng tôi chắc chắn với điều kiện của mình hoàn toàn đủ để lo cho cả hai cháu.
Chủ tọa: Nếu được quyền nuôi dưỡng con chung, chị có tạo điều kiện cho anh Nguyệt gặp con không?
Nguyên đơn: Thưa HĐXX, khi nào anh ấy muốn thăm con, anh ấy đều có thể đến gặp con
Chủ tọa: Hiện tại, bà có phải chu cấp cho ai trong gia đình của bà không?
Nguyên đơn: Thưa HĐXX, bố mẹ tôi vẫn khỏe mạnh và có lương hưu, ngoài ra các anh em của tôi đều đã có công việc ổn định, nên tôi không phải chu cấp cho ai.
Chủ tọa: Mời nguyên đơn ngồi
Mời bị đơn đứng dậy
Trong thời gian cháu Đức Anh ở với anh, anh có cho cháu gặp mẹ không?
Bị đơn: Có, tôi vẫn tạo điều kiện cho cô Hảo gặp cháu
Chủ tọa: Vào thời điểm cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, anh có làm đơn gửi đến xã Thượng Đạt đề nghị được cấp Giấy chứng nhận không?
Bị đơn: Tôi không làm đơn gửi đến xã Thượng Đạt đề nghị được cấp GCN QSDĐ. Năm 2005, UBND xã và huyện tự làm GCN QSDĐ đứng tên 2 vợ chồng tôi và gọi tôi lên nhận
Chủ tọa: Mời hội thẩm nhân dân Nguyễn Văn B tham gia phản hồi
HTND Quỳnh Anh: Tôi đề nghị được hỏi bị đơn.
Chủ tọa: Mời bị đơn đứng dậy.
HTND QA:

Bị đơn:

Anh Nguyệt cho Hội thẩm biết anh đăng ký kết hôn với chị Hảo vào ngày tháng năm nào? Ở đâu? Anh có tự nguyện khi kết hôn với chị Hảo không?

Tôi kết hôn với cô Hảo vào ngày 26/03/1999 tại UBND xã Thượng Đạt. Tôi tự nguyện kết hôn với cô Hảo.

HTND QA: Anh có đồng ý với yêu cầu ly hôn của chị Nguyệt không?
Bị đơn: Tôi đồng ý ly hôn với cô Hảo.
HTND QA: Tại sao khi anh cho rằng tài sản này là của bố mẹ và các anh em của anh mà khi xã cấp GCNQSDĐ cho anh thì anh lại không thắc mắc gì?
Bị đơn:

 

Bởi vì lúc đó tôi và cô Hảo đang chung sống trên thửa đất này. Mặt khác tôi là một người nông dân, việc hiểu biết pháp luật còn hạn chế nên khi nhận GCN QSD đất mang tên tôi và cô Hảo tôi không biết được việc cấp GCN như thế là sai quy định nên không thắc mắc. Nay tôi mới được biết
HTND QA: Tôi đã hết câu hỏi. Đề nghị chủ tọa tiếp tục làm việc.
Chủ tọa: Mời bị đơn ngồi.
Mời Hội thẩm nhân dân Nguyễn Văn C đặt câu hỏi.

HTND XH (Hội thẩm nhân dân xét hỏi):

Tôi đề nghị được hỏi người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Văn J.
Chủ tọa: Mời người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Văn J đứng dậy.
HTND XH: Bà cho HĐXX biết: Ngày 05/07/2016, trước sự chứng kiến của bà Thoa, cháu Đức Anh có nguyện vọng được ở với mẹ cháu là chị Hảo, có đúng như vậy không?
Nguyễn Văn J: Thưa HĐXX, đúng là ngày 05/7/2016, cháu Đức Anh có nguyện vọng được ở với mẹ, nhưng sau đó cháu lại sợ khi ở với mẹ cháu không được đi học như chị Nhi nên cháu đã đổi ý là muốn sống với bố.

HTND XH:

Tôi tiếp tục đề nghị được hỏi người làm chứng ông Nguyễn Văn O.
Chủ tọa: Mời bà NN Mai ngồi.
Mời người làm chứng ông Nguyễn Văn O đứng dậy.
HTND XH: Sau khi biết anh Nguyệt và chị Hảo được cấp GCNQSDĐ cho thửa đất số 496, tờ bản đồ 01, ông và các anh chị em trong nhà có phản đối hay thắc mắc gì không?
Nguyễn Văn O: Thưa HĐXX, tôi và mọi người trong nhà không ai có thắc mắc gì ạ.

HTND XH:

Tôi đã hết câu hỏi. Đề nghị chủ tọa tiếp tục làm việc.
Chủ tọa: Mời ông Nguyễn Văn O ngồi.
Mời đại diện Viện kiểm sát đặt câu hỏi.
KSV (Kiểm sát viên): Thưa HĐXX, tôi xin được hỏi Bị đơn.
Chủ tọa: Mời Bị đơn đứng dậy.
KSV:

Việc vợ chồng anh mang đất đi thế chấp ngân hàng, gia đình anh có ý kiến hay tranh chấp gì không?

Bị đơn: Gia đình tôi không có ý kiến hay tranh chấp gì.

KSV:

Thưa HĐXX, tôi hết câu hỏi với Bị đơn.
Xin được hỏi cán bộ địa chính xã Thượng Đạt, ông Nguyễn Văn N.
Chủ tọa: Mời Bị đơn ngồi.
Mời ông Nguyễn Văn N đứng dậy.

KSV:

Khi tiến hành kê khai làm giấy GCNQSDĐ cho hộ anh Nguyệt – chị Hảo thì chính quyền xã có thông báo cho hộ gia đình đứng ra kê khai không? Hay là phía chính quyền tự kê khai và thực hiện việc cấp giấy GCNQSDĐ?
Nguyễn Văn N: Năm 2001, Xã thống kê xem xét các hộ được giao đất trái thẩm quyền để đề nghị UBND huyện giải quyết. Sau khi có chỉ đạo của UBND huyện thì thông báo tới các hộ gia đình nào có nhu cầu thì kê khai làm giấy chứng nhận; xã lập Hội đồng xét duyệt, làm hồ sơ trình UBND huyện cấp giấy. Nên anh Hảo và chị Nguyệt có được thông báo.

KSV:

 

Thưa HĐXX, tôi đã hết câu hỏi với người làm chứng – anh Nguyễn Văn N,
Tôi đề nghị được hỏi người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan – đại diện UBND Thành phố Hải Dương là bà Lê Thị M.

KSV

Câu 1: Ông cho biết khi lập danh sách 30 hộ gia đình được cấp GCNQSDĐ, UBND xã Thượng Đạt có thông báo công khai, niêm yết công khai danh sách này hay không? Niêm yết công khai ở đâu?

Câu 3: Hiện nay, UBND thành phố có còn giữ hồ sơ cấp GCNQSDĐ cho 30 hộ dân năm 2005 không? => Hiện tại hồ sơ đã bị thất lạc nhưng thời điểm đó UBND huyện Nam Sách đã thực hiện trình tự cấp đúng quy định.

Câu 4: Sau khi cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, UBND có nhận được đơn khiếu nại hay ý kiến phản đối nào về việc cấp Giấy chứng nhận không?

Thưa không.

KSV Câu 5: Trong quá trình sử dụng đất số 496, anh Nguyệt chị Hảo có thực hiện đúng nghĩa vụ nộp thuế sử dụng đất và các nghĩa vụ khác của người sử dụng đất hay không?

Thưa anh Nguyệt chị Hảo thực hiện đóng thuế đầy đủ.

Lê Thị M

Thưa anh Nguyệt chị Hảo thực hiện đóng thuế đầy đủ.

Lê Thị M

Thưa HĐXX theo báo cáo của UBND xã Thượng Đạt thì thời điểm đó UBND xã có niêm yết danh sách 30 hộ dân được cấp GCNQSDĐ và công khai, dán thông báo ở UBND.

30 hộ gia đình trong đó có cả anh Nguyệt và chị Hảo đều có làm đơn đề nghị cấp GCNQSDĐ vào ngày 25/10/2001.

Câu 2:
Các hộ gia đình trên có làm đơn đề nghị cấp GCNQSDĐ không?

KSV Thưa HĐXX, tôi hết câu hỏi, đề nghị HĐXX tiếp tục làm việc.
Chủ tọa Vị đại diện VKS, các đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các đương sự, những người tham gia tố tụng khác, có ai có yêu cầu hỏi thêm không?
(Dừng một chút rồi nói tiếp)
Không ai còn yêu cầu hỏi thêm, thay mặt Hội đồng xét xử tôi tuyên bố kết thúc phần hỏi và chuyển sang phần tranh luận.

III/ PHẦN TRANH LUẬN

Chủ tọa Đề nghị Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn phát biểu quan điểm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn
LSNĐ Trình bày bản luận cứ:
Kính thưa: Hội đồng xét xử, vị đại diện Viện kiểm sát, các vị luật sư đồng nghiệp và toàn thể quý vị đang có mặt trong phiên tòa ngày hôm nay!
Tôi là Luật sư Nguyễn Văn G – thuộc văn phòng luật sư A, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hà Nội. Hôm nay tôi tham gia phiên toà này với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn – chị Hoàng Thị Hảo trong vụ án dân sự “tranh chấp ly hôn, nuôi con, chia tài sản”.
Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, qua phần xét hỏi tại toà, tôi xin được trình bày quan điểm của mình để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho chị Hoàng Thị Hảo. Về mặt tố tụng, tôi không có ý kiến gì thêm. Về mặt nội dung, tôi xin trình bày như sau:Nguyên đơn khởi kiện với 03 yêu cầu:
Thứ nhất, Về yêu cầu ly hônXét thấy, chị Hoàng Thị Hảo và anh Nguyễn Văn Nguyệt kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký tại Ủy ban nhân dân xã Thượng Đạt, TP Hải Dương, tỉnh Hải Dương ngày 26/03/1999. Hiện nay cả nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu ly hôn và bị đơn chấp thuận yêu cầu này của nguyên đơn, nguyên đơn và bị đơn xác nhận quan hệ hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, Cụ thể: sau khi cưới, hai bên chung sống được khoảng thời gian là 02 năm thì phát sinh mâu thuẫn, anh Nguyệt có hành vi đánh đập, chửi bới vợ con. Mặc dù đã được sự động viên từ phía gia đình, hòa giải từ địa phương nhưng đều không thành. Hiện nay, hai bên đã sống ly thân, không còn quan tâm, chăm sóc cho nhau. Do đó, dựa trên yêu cầu và sự tự nguyện của hai bên, đây là yêu cầu hoàn toàn hợp lý và có căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 51 và khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình 2014, kính mong HĐXX xem xét và cho chị Hảo và anh Nguyệt được ly hôn.Thứ hai, về yêu cầu nuôi chung và cấp dưỡngAnh Nguyệt, chị Hảo có 02 con chung là Nguyễn Thị Nhi, sinh ngày 04/01/2001 và cháu Nguyễn Đức Anh sinh ngày 13/06/2007. Nguyên đơn có mong muốn được nuôi cả 02 con và không yêu cầu bị đơn cấpThời điểm ly hôn, xét về tuổi của cả hai cháu đều trên 07 tuổi, cần cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 82 Luật HNGĐ 2014 nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của các con. Cháu Nhi đã có đơn đề nghị được sống với mẹ sau khi bố mẹ ly hôn, hiện nay cháu cũng đang sống cùng mẹ; biên bản lấy lời khai ngày 05/07/2016 của cháu Đức Anh cũng có nguyện vọng được ở cùng mẹ Hảo sau khi ly hôn (được thể hiện tại bút lục số 30, 31 và bút lục 166).Thêm vào đó, xét về hoàn cảnh và điều kiện sống của chị Hảo, chị Hảo hoàn toàn có khả năng về thời gian, tình cảm và kinh tế để nuôi dưỡng hai con. Chị Hảo là người chịu thương chịu khó, thu vén cho gia đình chồng, tư cách đạo đức tốt được gia đình chồng và xóm giềng ghi nhận (được thể hiện tại bút lục 89). Chị Hảo hiện nay đang là công nhân tại công ty Trần Anh, thu nhập ổn định hàng tháng từ 5–6 triệu đồng, thời gian làm việc 8 tiếng một ngày giờ hành chính – với thời gian làm việc này chị Hảo hoàn toàn có thời gian chăm sóc, giáo dục con cái đặc biệt khi hai con đang trong giai đoạn phát triển tâm sinh lý rất cần sự quan tâm, chăm sóc, giáo dục của một người mẹ.

Bên cạnh đó, việc giao cháu Đức Anh cho anh Nguyệt nuôi sẽ gây ảnh hưởng lớn đến tâm sinh lý, sự phát triển của cháu Đức Anh, do anh Nguyệt có hành vi đánh đập và ngăn cản cháu Đức Anh gặp mẹ, UBND xã cũng nắm được sự việc này (được thể hiện tại Bút lục 73–74). Ngoài ra, công việc anh Nguyệt chủ yếu dựa khu trồng trọt chăn nuôi ở khu đất thuê của xã (cuối năm 2016 kết thúc hạn HĐ thuê), thu nhập và thời gian làm việc không ổn định. Thử hỏi việc giao cháu Đức Anh cho một người như vậy liệu có phải là điều tốt nhất cho cháu Đức Anh hay không? Ngoài ra, người lớn chia tay không để con trẻ bị chia rẽ. Bố mẹ có thể không hài lòng về nhau hay không cùng quan điểm trong nhiều mặt của cuộc sống, phải ly hôn, nhưng hãy tạo điều kiện tốt nhất cho con mình kể cả vật chất, lẫn tinh thần. Chị Hảo chăm sóc nuôi dưỡng 2 con, tạo điều kiện cho bản thân và các con quan tâm chăm sóc lẫn nhau, hai chị em Nhi – Anh không bị hụt hẫng khi cha mẹ ly hôn. Tôi kính mong HĐXX chấp nhận yêu cầu được nuôi 2 cháu của chị Hảo, tất cả vì lợi ích và nguyện vọng của 02 cháu.

* Ngoài ra, chị Hảo có điều kiện nuôi dưỡng các cháu hơn, cụ thể:

Hiện nay, chị Hảo có công việc ổn định tại Công ty Trần An, mức thu nhập hàng tháng từ 4–6 triệu đồng và chị đang sống chung tại nhà của mẹ đẻ, việc chăm sóc các cháu vừa có thể tự mình làm, vừa có thể nhờ mẹ đỡ đần chăm sóc. Bên cạnh đó, các cháu cũng đã lớn, có thể phụ giúp mẹ và bà và đều ngoan ngoãn, vâng lời. Với mức thu nhập nói trên nguyện đơn xác định có đủ điều kiện về thời gian, về chỗ ở và về kinh tế để nuôi 02 con lớn khôn, nên người.

Nguyên đơn không yêu cầu anh Nguyệt cấp dưỡng, nuôi con vì nguyên đơn đảm bảo lo liệu được.
Tôi kính mong HĐXX chấp nhận yêu cầu được nuôi 2 cháu của chị Hảo, tất cả vì lợi ích và nguyện vọng của 02 cháu.

* Thứ 3, Về yêu cầu chia tài sản chung được hình thành trong thời kỳ hôn nhân của bà Hảo và ông Nguyệt, tôi xin khẳng định việc yêu cầu chia tài sản chung đối với thửa đất số 496 thuộc tờ bản đồ số 01, diện tích 216m2 tại xã Thượng Đạt, TP Hải Dương là hoàn toàn có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật. Bởi lẽ:

(1) Chị Hảo và anh Nguyệt kết hôn vào năm 1999, thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa đất số 496 thuộc tờ bản đồ số 01, diện tích 216m2 tại xã Thượng Đạt, TP Hải Dương ngày 31/12/2005 là đang trong thời kỳ hôn nhân. Nhà đất này được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên Nguyễn Văn Nguyệt và Hoàng Thị Hảo (bút lục 8–11). Như vậy, việc xác định thửa đất thuộc quyền sử dụng hợp pháp, là tài sản chung của cả hai vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là hoàn toàn có căn cứ.

(2) Trong suốt thời gian từ khi được cấp GCNQSDĐ đến nay chưa có bất kỳ tranh chấp nào phát sinh (thể hiện tại Bút lục 76). Cụ thể: Công văn của Phòng Tài nguyên và Môi trường UBND TP Hải Dương ngày 10/06/2016 (bút lục 133 – 134) đã khẳng định với Tòa án về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên là trong khuôn khổ cấp đồng loạt cho cả 30 hộ dân trong xã Thượng Đạt, việc cấp giấy bảo đảm đúng quy trình và không chấp nhận yêu cầu huỷ GCNQSDĐ của anh Nguyệt. Công văn này cũng nêu rõ bà Thoa, ông Cang biết việc này nhưng không ai có kiến phản đối gì; trong buổi hoà giải ngày 19/05/2016 tại Toà án, bà Thoa khai rằng bà và những người trong gia đình đã biết việc anh Nguyệt, chị Hảo được cấp GCNQSDĐ và không ai phản đối. Tại bút lục số 86 lời khai của ông Nguyễn Văn Chuyển, em trai ông Nguyệt cũng thể hiện việc gia đình đã biết được cấp GCN và mang tên 2 vợ chồng anh Nguyệt – chị Hảo. Hai anh chị đã thế chấp ngân hàng lấy tiền cho anh Chuyển vay. Gia đình đều biết và không có ý kiến gì. Việc cấp GCNQSDĐ của cơ quan nhà nước là dựa trên yêu cầu của từng hộ gia đình và anh Nguyệt đã “lên Ủy ban nhân dân xã Thượng Đạt” để nhận Giấy chứng nhận QSD này là chứng thực cho việc anh không phản đối việc được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho riêng anh và chị Hảo tại thời điểm đó. Trình tự, thủ tục cấp GCNQSDĐ được tiến hành theo đúng quy định của pháp Luật về đất đai (Bút lục 134). Từ thời điểm được cấp Giấy chứng nhận đến nay, anh Nguyệt và chị Hảo đã tạo dựng nhà và các công trình phụ trợ, sinh sống ổn định, lâu dài trên diện tích đất này, bà Thoa, ông Cang cùng các anh em trong gia đình đã biết nhưng không ai có ý kiến phản đối, khiếu nại, không có bất kỳ tranh chấp nào đối với diện tích đất nêu trên. Trong quá trình chung sống, do cần tiền để làm ăn cũng như cho anh Chuyển vay làm nhà, Anh Nguyệt và chị Hảo đã đứng ra thế chấp nhà đất nói trên để vay họ tiền và cũng không gặp ý kiến phản đối nào từ phía gia đình anh Nguyệt.

(3) Chị Hảo có công sức cải tạo, bồi đắp, tôn tạo thửa đất số 496 cùng với anh Nguyệt trong suốt quãng thời gian chung sống vợ chồng. Trước đây thửa đất này bị trũng sâu (Bút lục 75 – theo xác minh ngày 09/03/2016 của cán bộ địa chính xã Thượng Đạt – ông Nguyễn Văn N xác nhận vấn đề này), hai vợ chồng đã cùng nhau san lấp, cải tạo cho thửa đất bằng phẳng, xây nhà cùng các công trình phụ trên đất như ngày nay. Cả hai cùng chuyển mục đích đất thùng vũng, trũng không canh tác được sang thành đất ở, đưa đất trở lên có giá trị hơn.

(4) Mặt khác, căn cứ nội dung Án lệ số 03/2-16/A1 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 06/04/2016 (đọc Công bố theo quyết định 220 QĐ-CA ngày 06/04/2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao) nêu rõ: “Trường hợp cha mẹ đã cho vợ chồng người con một diện tích đất và vợ chồng người con đã xây dựng, nhà kiên cố trên diện tích đất đó để làm nơi, khi vợ chồng người con xây dựng nhà thì cha mẹ và những người khác không có ý kiến phản đối gì, vợ chồng người con đã sử dụng nhà, đất liên tục, công khai, ổn định và đã tiến hành việc kê khai đất, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì phải xác định vợ chồng người con đã được tặng cho quyền sử dụng đất”.

Từ những chứng cứ nêu trên cho thấy quyền sử dụng thửa đất số 496 thuộc tờ bản đồ số 01, diện tích 216m2 tại xã Thượng Đạt, TP Hải Dương ngày 31/12/2005 là do cha mẹ anh Nguyệt tặng cho vợ chồng anh Nguyệt chị Hảo và là tài sản chung của cả anh Nguyệt, chị Hảo hoàn toàn hợp pháp và được mọi người trong gia đình bà Thoa chấp nhận.
Vì các lẽ trên, tôi kính mong HĐXX chấp nhận yêu cầu chia đôi tài sản chung (tương ứng với diện tích 108m2 = rộng 4 m x dài 27m) và Chị Hảo nhận phần đất không có tài sản đối với thửa đất 496 thuộc tờ bản đồ số 01, diện tích 216m2 tại xã Thượng Đạt. TP Hải Dương. Đây cũng là thiện chí của chị Hảo để anh Nguyệt không phải bỏ kinh phí xây dựng nhà khi ly hôn.

Do đó, kính đề nghị HĐXX chia tài sản chung của vợ chồng chị Hảo và anh Nguyệt theo nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn theo quy định tại điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 và án lệ số 03/2016/AL.

Căn cứ tình hình thực tế, qua các luận cứ trên, với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn Hoàng Thị Hảo, chúng tôi kính đề xuất HĐXX xem xét áp dụng các điều khoản sau đây:
+) Về yêu cầu ly hôn: Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật HNGĐ năm 2014 và các văn bản hướng dẫn, kính đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Hoàng Thị Hảo và anh Nguyễn Văn Nguyệt.
+) Về con chung: Hiện nay, cháu Nguyễn Thị Nhi 16 tuổi, cháu Nguyễn Đức Anh 12 tuổi, kính đề nghị HĐXX căn cứ vào khoản 2 Điều 81, căn cứ nguyện vọng cuối cùng của các con để quyết định cho nguyên đơn được nuôi dưỡng các cháu, không yêu cầu bị đơn cấp dưỡng.

+) Về tài sản chung: đề nghị được chia bằng hiện vật; Căn cứ Điều 135 Nghị định 108/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính Phủ về thi hành Luật Đất đai 2003, Căn cứ án lệ số 03/2016/AL, xác định QSDĐ đối với 216m2 đất thửa số 496, tờ bản đồ số 01 tại xã Thượng Đạt, TP Hải Dương là tài sản chung của vợ chồng hình thành trong thời kỳ hôn nhân. Chị Nguyệt được 1/2 tài sản chung (tương ứng với diện tích 108m2 = rộng 4 m x dài 27m) và Chị Hảo nhận phần đất không có tài sản.

+) Về yêu cầu huỷ GCN QSDĐ: theo quy định tại khoản 2, Điều 106 Luật Đất đai năm 2013, Nhà nước thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ), quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đã cấp trong các trường hợp sau:
– Trường hợp 1. Nhà nước thu hồi toàn bộ diện tích đất trên GCNQSDĐ đã cấp;
– Trường hợp 2. Cấp đổi GCNQSDĐ đã cấp;
– Trường hợp 3. Người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất đăng ký biến động đất đai, tài sản gắn liền với đất mà phải cấp mới GCNQSDĐ;
– Trường hợp 4. GCNQSDĐ đã cấp không đúng quy định của pháp luật về đất đai.

Các tài liệu ông Nguyệt đưa ra không có cơ sở pháp luật. UBND thành phố và UBND xã đều công nhận việc cấp GCN QSD Đ cho anh Nguyệt chị Hảo đúng theo quy định. Đề nghị HĐXX bác bỏ yêu cầu huỷ GCN QSDĐ trên của ông Nguyệt và các đương sự khác.

Trên đây là toàn bộ quan điểm của tôi về việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho chị Hoàng Thị Hảo. Kính mong HĐXX xem xét một cách công tâm và chấp thuận toàn bộ yêu cầu.

Trân trọng cảm ơn sự lắng nghe của Hội đồng xét xử và toàn thể mọi người có mặt trong phiên tòa hôm nay!

Chủ tọa: Mời luật sư ngồi, mời chị Hảo đứng dậy. Chị có ý kiến bổ sung gì về lời trình bày của luật sư không?
Hoàng Thị Hảo: Thưa Hội đồng xét xử, tôi hoàn toàn đồng ý với phần trình bày của luật sư và không có ý kiến gì thêm.
Chủ tọa: Mời chị ngồi.
Đề nghị Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn phát biểu phát biểu quan điểm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn.
LSBĐ Trình bày bản luận cứ:

Kính thưa Hội đồng xét xử! Thưa Vị đại diện Viện kiểm sát!
Các vị luật sư đồng nghiệp cùng toàn thể quý vị có mặt trong phiên toà ngày hôm nay!

Quá qua trình nghiên cứu toàn bộ hồ sơ có liên quan, cũng như thông qua theo dõi diễn biến phần xét hỏi tại phiên toà ngày hôm nay, tôi là LS Nguyễn Văn I – thuộc VP LS B – đoàn LS TP HN xin trình bày quan điểm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn – anh Nguyễn Văn Nguyệt như sau:

Thứ nhất, về yêu cầu giải quyết ly hôn của chị Hoàng Thị Hảo:

Thưa Hội đồng xét xử, chị Hoàng Thị Hảo và anh Nguyễn Văn Nguyệt đăng ký kết hôn hợp pháp với nhau trên cơ sở tự nguyện theo Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn ngày 26/03/1999. Tuy nhiên, chỉ sau 02 năm, đời sống hôn nhân của anh Nguyệt và chị Hảo đã nảy sinh nhiều mâu thuẫn.

Theo như lời trình bày của cả hai bên thì quan hệ hôn nhân của vợ chồng anh Nguyệt và chị Hảo đã mâu thuẫn đến mức đỉnh điểm, không thể hoà giải được. Hai anh chị đã ly thân từ ngày 14/12/2014. Từ đó đến nay, chị Hảo xác định tình cảm vợ chồng không còn, hai vợ chồng không còn quan tâm đến nhau nữa. Vì vậy, chị Hảo xin ly hôn với anh Nguyệt. Anh Nguyệt cũng xác nhận không còn tình cảm vợ chồng và đồng ý yêu cầu ly hôn của chị Hảo.

Do vậy, có thể khẳng định rằng cả hai bên không thể tiếp tục sống chung, hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do vậy, tôi kính đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào Khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân gia đình 2014 và các chứng cứ tại hồ sơ cũng như tại phiên toà hôm nay, chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh Nguyệt và chị Hảo.

Thứ hai, anh Nguyệt là người có quyền nuôi cháu Nguyễn Đức Anh là đáp ứng đúng với nguyện vọng thỏa đáng của cháu, cũng như bảo đảm được lợi ích cho sự phát triển của cháu.

Cháu Nguyễn Đức Anh sinh ngày 13/06/2007, là con chung của anh Nguyệt và chị Hảo trong thời kì hôn nhân, tính đến thời điểm hiện tại cháu Đức Anh đã trên 07 tuổi.

Theo như Đơn đề nghị của cháu Đức Anh (Bút lục số 32) thì cháu có nguyện vọng ở với bố vì chị của cháu là cháu Nhi không được đi học cấp 3, một suy nghĩ còn hết sức non nớt của đứa trẻ, tuy nhiên cũng cho thấy thực tế lo sợ về tương lai của bản thân đối với cuộc sống áp lực khi phải ở với mẹ, như chị gái đang phải chịu. Như vậy việc anh Nguyệt có quyền nuôi dưỡng cháu Đức Anh sau khi ly hôn là hợp lý và hợp pháp.

Mặt khác, anh Nguyệt hiện đang nuôi cháu Đức Anh, nhà anh Nguyệt ở khu vực gần trường học sẽ thuận tiện hơn trong việc đi lại cũng như học tập của cháu. Mức thu nhập ổn định hiện tại của anh Nguyệt một tháng là khoảng 08 triệu đồng, so với mức sinh hoạt phí tại địa phương thì anh Nguyệt có đầy đủ điều kiện để chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu Đức Anh, đảm bảo được sự phát triển của cháu, hơn hẳn mức thu nhập của mẹ cháu chỉ 5-6 triệu đồng/tháng nhưng lại chỉ trả việc nuôi dạy học hành của cả 2 đứa con.

Vì vậy, chúng tôi đề nghị Tòa án áp dụng quy định tại Khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân gia đình 2014 “Nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con” khi xem xét việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con để anh Nguyệt là người nuôi dưỡng, chăm sóc cháu Đức Anh sau khi ly hôn.

Thứ ba, về tài sản chung để phân chia sau khi ly hôn của anh Nguyệt và chị Hảo chỉ có ngôi nhà và các công trình phụ nằm trên đất.

Chị Hảo cho rằng thửa đất số 496, tờ bản đồ số 01, diện tích 216m2, có địa chỉ tại xã Thượng Đạt, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương là tài sản chung của vợ chồng là không chính xác, bởi các lẽ sau:

+ Nguồn gốc thửa đất trên là của Bố mẹ và anh em của anh Nguyệt góp tiền mua của UBND xã Thượng Đạt vào năm 1994, không hề có sự đóng góp của anh Nguyệt (có xác nhận của cán bộ địa chính);

Cuối năm 1994, đầu năm 1995, ông Nguyễn Văn Cang và bà Nguyễn Thị Thoa cùng các con là Nguyễn Văn O, Nguyễn Văn Chuyển có góp tiền mua thửa đất hiện tại anh Nguyệt đang sử dụng từ UBND xã Thượng Đạt với giá 1.550.000 đồng. Số tiền này do anh Nguyễn Văn O đóng góp 1.000.000 đồng, anh Nguyễn Văn Chuyển đóng góp 550.000 đồng. Tại thời điểm đó, bà Nguyễn Thị Thoa là người trực tiếp đi nộp tiền mua thửa đất cho UBND xã Thượng Đạt, điều này đã được xác minh bởi ông Nguyễn Văn N – cán bộ địa chính xã (bút lục 75). Hơn nữa, anh Nguyệt không hề đóng góp bất cứ khoản tiền nào đối với thửa đất trên nên thửa đất trên là tài sản của bố mẹ anh Nguyệt và của anh Nguyễn Văn O, anh Nguyễn Văn Chuyển.

+ Chị Hảo đã trình bày rằng đã được bố mẹ cho vợ chồng chị thửa đất nói trên. Tuy nhiên, như chúng tôi đã trình bày ở trên thì Thửa đất này là tài sản của bố mẹ và các anh em của anh Nguyệt. Theo lời khai của bà Nguyễn Thị Thoa, anh Nguyễn Văn O, anh Nguyễn Văn Chuyển (các bút lục 93, 82, 85). Sau khi mua thửa đất này, gia đình bà Thoa đã họp thống nhất cho phép vợ chồng anh Nguyệt ra ở trên thửa đất 496, được xây dựng nhà và các công trình phụ trên đất, tuy nhiên chỉ cho vợ chồng anh Nguyệt ở nhờ trên đất; không hề có bất cứ tuyên bố bằng miệng hay có bất cứ văn bản nào xác nhận việc tặng cho thửa đất này cho cá nhân anh Nguyệt hay vợ chồng anh Nguyệt.

+ Về Trình tự, thủ tục cấp Giấy chứng nhận QSD đất đối với thửa đất số 496, tờ bản đồ 01 có địa chỉ tại xã Thượng Đạt, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương mang tên Chị Hảo và Anh Nguyệt không đúng quy định của pháp luật, do:

+ Không hề có Đơn xin cấp GCNQSD đất đối với thửa đất số 496.

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 135 Nghị định 181/2004/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật đất đai 2003 quy định về trình tự, thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất tại xã, thì trình thì trong hồ sơ nộp cho UBND xã nơi có đất phải có Đơn xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Tuy nhiên thông qua lời khai của anh Nguyệt tại bút lục 18,19, lời khai của ông Nguyễn Văn N – cán bộ địa chính xã Thượng Đạt (bút lục 76) và phần xét hỏi tại phiên tòa ngày hôm nay, đã khẳng định rằng anh Nguyệt đã không làm Đơn xin Cấp GCNQSD đất hay bất cứ một giấy tờ gì đối với thửa đất số 496, tờ bản đồ 01, diện tích 216 m2 có địa chỉ tại xã Thượng Đạt, huyện Nam Sách, Tỉnh Hải Dương. UBND xã Thượng Đạt tự làm GCNQSD đất mang tên 2 vợ chồng anh chị. Anh Nguyệt chỉ biết là mình và chị Hảo được cấp CNQSD đất khi UBND xã gọi anh lên ký và nhận GCNQSD đất.

+ Bà Thoa, anh Tuấn, anh Chuyển không hề được UBND xã Thượng Đạt thông báo về Quyết định số 563/2002/QĐ-UB của UBND huyện Nam Sách về việc xử lý giao đất trái thẩm quyền cho 30 hộ dân.

Theo quy định tại Điểm a Khoản 2 Điều 135 Nghị định 181/2004/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật đất đai năm 2003:

“Ủy ban nhân dân xã, thị trấn có trách nhiệm thẩm tra, xác nhận vào đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất về tình trạng tranh chấp đất đai đối với thửa đất; trường hợp người đang sử dụng đất không có giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai thì thẩm tra, xác nhận về nguồn gốc và thời điểm sử dụng đất, tình trạng tranh chấp đất đai đối với thửa đất, sự phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt; công bố công khai danh sách các trường hợp đủ điều kiện và không đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã, thị trấn…”

Trong giai đoạn 1991 – 1996, UBND xã Thượng Đạt có bán khu đất ở có thu tiền trái thẩm quyền cho 30 hộ gia đình, trong đó có hộ gia đình anh Nguyệt, chị Hảo. Căn cứ vào hồ sơ được lập, UBND huyện Nam Sách đã ra Quyết định số 563/2002/QĐ-UB ngày 22/07/2002 về việc xử lý giao đất trái thẩm quyền cho 30 hộ gia đình trong đó có hộ gia đình anh Nguyệt, chị Hảo. UBND xã Thượng Đạt lập danh sách của 30 hộ và được UBND huyện Nam Sách cấp giấy CNQSD đất đồng loạt trong đó có hộ anh Nguyệt, chị Hảo.

UBND xã Thượng Đạt đã biết được việc hộ gia đình nào được cấp GCNQSD đất, sau đó chủ động tự lập danh sách căn cứ theo Quyết định 563/2002/QĐ-UB. Tuy nhiên bà Thoa cùng anh Quyết, anh Chuyển không hề biết đến Quyết định số 563/2002/QĐ-UB của UBND huyện Nam Sách cũng như không được UBND xã Thượng Đạt thông báo về Quyết định này.

Bản thân bà Thoa, anh Tuấn và anh Chuyển là người đóng góp tiền mua thửa đất 496 nói trên, trong đó bà Thoa là người trực tiếp đi nộp tiền cho UBND xã Thượng Đạt. Việc UBND xã tự ý lập danh sách và đã không thông báo cho gia đình bà Thoa cho nên việc gia đình bà Thoa không biết đến Quyết định 563/2002/QĐ-UB là lẽ đương nhiên.

Căn cứ theo lời khai của chị Hảo (bút lục 62), chị Hảo cũng không biết tới Quyết định này mà chỉ biết là UBND xã Thượng Đạt cấp GCNQSD đất mang tên vợ chồng chị sau khi anh Nguyệt lên xã nhận GCNQSD đất.

Với những căn cứ và lập luận ở trên, hoàn toàn có đủ căn cứ để chứng minh rằng thửa đất số 496, tờ bản đồ số 01, diện tích 216m2, có địa chỉ tại xã Thượng Đạt, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương là tài sản do bố mẹ và các anh em của anh Nguyệt đóng góp; Giấy CNQSDĐ mang tên Chị Hảo và Anh Nguyệt không có giá trị pháp lý, không khẳng định chủ quyền sử dụng đất, không là căn cứ chứng minh lô đất là tài sản chung của vợ chồng anh Nguyệt, chị Hảo.

Thực tế anh Nguyệt và chị Hảo có một số tài sản chung giống như chị Hảo đã trình bày bao gồm:

01 căn nhà ở cấp 4 diện tích là 21,8 m² lợp ngói, 1 gian bếp 13,2 m² và nhà vệ sinh khoảng 10 m², 1 giếng khơi, 1 bể xây gạch xi măng khoảng 1,6 m³ xây dựng trên thửa số 496 tờ bản đồ số 01, chuồng lợn, tường bao phía Nam, tường bao phía Đông, tường bao phía Tây, ngoài ra trên đất còn 3 bụi chuối.

Căn cứ theo quy định tại Điều 59 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, việc chia tài sản chung của vợ chồng sẽ được xem xét dựa trên công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản và nhu cầu và điều kiện trực tiếp sử dụng tài sản đó, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giải quyết chia đôi tài sản chung cho cả hai bên.

Từ những quan điểm đã nêu như trên:

Căn cứ vào quy định tại khoản 1 Điều 56, Điều 59 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Chúng tôi kính mong HĐXX chấp nhận yêu cầu sau đây của bị đơn:

1 – Về quan hệ hôn nhân: Chấp thuận cho ly hôn.

2 – Về con chung:
Yêu cầu Tòa án giải quyết chấp thuận cho Anh Nguyễn Văn Nguyệt được quyền chăm sóc và nuôi dưỡng con trai là Nguyễn Đức Anh và không yêu cầu chị Hảo cấp dưỡng nuôi con.

3 – Về tài sản chung:
Yêu cầu tòa án tiến hành hủy bỏ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên anh Nguyệt, chị Hảo. Yêu cầu tòa án tiến hành việc chia tài sản chung của hai bên bao gồm 01 ngôi nhà 18m2 lợp ngói, 01 gian bếp và nhà vệ sinh khoảng 10m2, 01 giếng khơi, 01 bể xây gạch xi măng khoảng 1,6m3.

Trên đây là phần trình bày quan điểm của tôi đối với vụ án, kính mong Hội đồng xét xử xem xét, giải quyết nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Bị đơn.

Xin cảm ơn sự lắng nghe của Hội đồng xét xử và mọi người tham dự phiên tòa!

Chủ tọa: Mời luật sư ngồi, mời anh Nguyệt đứng dậy. Anh có ý kiến bổ sung gì về lời trình bày của luật sư không?
Bị đơn: Thưa HĐXX, tôi không bổ sung gì thêm.
LS. Nguyễn Văn J Trình bày luận cứ bảo vệ
Kính thưa Hội đồng xét xử;
Thưa vị đại diện VKS;
Thưa các vị luật sư và toàn thể quý vị có mặt tại phiên toà ngày hôm nay!Tôi là Nguyễn Văn J – Người đại diện theo ủy quyền cho bà Nguyễn Thị Thoa và ông Nguyễn Văn Cang – là người có quyền và nghĩa vụ liên quan trong vụ án “Yêu cầu ly hôn, Tranh chấp quyền nuôi con và chia tài sản” với bị đơn – anh Nguyễn Văn Nguyệt được TAND thành phố Hải Dương thụ lý theo thông báo số 02/TB-TLVA ngày 10/01/2016.Tôi xin trình bày quan điểm của mình về quyền sử dụng thửa đất số 496, tờ bản đồ số 01, diện tích 216m², có địa chỉ tại xã Thượng Đạt, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà Nguyễn Thị Thoa và ông Nguyễn Văn Cang như sau:Như theo lời khai của bà Thoa và các con trong gia đình bản chất nguồn gốc của thửa đất này là tài sản của gia đình bà Thoa, do các con bà gom góp tiền lại để mua và bà là người đóng tiền cho UBND xã Thượng Đạt năm 1994. Khi anh Nguyệt lấy vợ, bà và chồng bà là ông Cang chỉ nghĩ là nhà đông con nên cho các cháu mượn mảnh đất ở vườn để xây cất tạm ngôi nhà để ở và ông bà cũng không có lập văn bản hay giấy tờ gì về việc tặng cho mảnh đất này. Nên đây vẫn là đất của gia đình vợ chồng ông bà chứ ông bà chưa cho vợ chồng anh Nguyệt.Trên thực tế, anh Nguyệt và chị Hảo khi chung sống có một số tài sản xây dựng trên đất bao gồm:
01 căn nhà ở cấp 4 diện tích là 21,8m² lợp ngói,
01 gian bếp 13,2m² và nhà vệ sinh khoảng 10m²,
01 giếng khoi,
01 bể xây gạch xi măng khoảng 1,6m³ xây dựng trên thửa số 496 tờ bản đồ số 01,
chuồng lợn, tường bao phía Nam, tường bao phía Đông, tường bao phía Tây,
và 03 bụi chuối trên đất.Đây là những tài sản của vợ chồng anh Nguyệt, ông bà không có ý kiến gì để anh chị ấy tự giải quyết.Về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho vợ chồng anh Nguyệt:
Bà Thoa và ông Cang không được biết đến việc vợ chồng anh Nguyệt bằng cách nào làm hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận QSDĐ trong khi đất là do bà đi mua và ông bà cũng không cho vợ chồng anh chị ấy mảnh đất này. Do đi lấy chồng sớm, nhà lại nhiều con trình độ văn hóa của bà Thoa thấp kém bà không hiểu hết các quy định của pháp luật. Bà biết việc vợ chồng anh Nguyệt được cấp giấy CN QSDĐ khi anh Nguyệt thế chấp vay ngân hàng nhưng bà đã xác định với anh Nguyệt là thế chấp này không liên quan gì tới mảnh đất nhà ông bà, bà nghĩ đó là giấy chứng nhận cấp cho tài sản của vợ chồng anh chị trên đất và không liên quan gì tới mảnh đất của bà nên không có ý kiến gì đến nay.

Bên cạnh đó, việc UBND cấp xã cấp Giấy CNSQĐĐ cho các hộ dân theo diện cấp sai đất vào thời điểm bà mua thì UBND xã phải cấp đất cho vợ chồng ông bà là người đăng ký và mua đất sao lại cấp đất cho vợ chồng anh Nguyệt.

Vì vậy, tôi thấy việc cấp đất của UBND cho vợ chồng anh Nguyệt là sai. Tôi mong Hội đồng xét xử hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AC382972 đã cấp cho vợ chồng anh Nguyệt để bảo vệ quyền và ích hợp pháp cho gia đình bà Thoa.

Xin cảm ơn Hội đồng xét xử đã chú ý lắng nghe.

Trân trọng cảm ơn!

Chủ tọa Đề nghị vị Luật sư của nguyên đơn có ý kiến tranh luận, đối đáp với quan điểm của vị Luật sư bên phía bị đơn
LSNĐ Quyền

 

Thưa HĐXX!

+ Đối với yêu cầu nuôi cháu Đức Anh được luật sư bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị đơn đưa ra, tôi có ý kiến tranh luận như sau: Khi hai vợ chồng chị Hảo sống ly thân, anh Nguyệt thường ngăn cản không cho thân chủ tôi gặp cháu Đức Anh. Nếu chị Hảo gặp cháu, anh Nguyệt sẽ đánh đập cháu Đức Anh. Điều này được thể hiện ở bút lục 73-74. Nếu bé Đức Anh tiếp tục sống với bố thì chuyện này có thể còn xảy ra. Một đứa trẻ bị đánh chỉ vì mong muốn được gặp mẹ mình, đây là hành động cực kỳ đáng lên án, xâm phạm trực tiếp tới quyền cơ bản của con người. Chia cắt tình mẫu tử thiêng liêng. Mọi người hãy tưởng tượng xem, nếu rơi vào hoàn cảnh của cháu bé, bị cấm cản gặp mẹ của mình thì mọi người sẽ cảm thấy như thế nào. Thêm vào đó, cha của Đức Anh lại là 1 người ham chơi, bạo lực, không chú ý vun vén cho gia đình. Trẻ em như búp trên cành, nếu để bé Đức Anh sống với một người như thế, liệu rằng em có thể không bị ảnh hưởng hay không. Tương lai của 1 đứa trẻ đang cần sự cứu giúp ngay bây giờ của chúng ta, liệu chúng ta có thể nào làm ngơ không?

+ Đối với ý kiến của vị luật sư đưa ra đối với nguồn gốc đất, tôi xin khẳng định lại như sau: Bố mẹ đẻ của anh Nguyệt đã cho phép vợ chồng anh Nguyệt và chị Hảo dọn ra ở riêng, xây dựng nhà kiên cố trên diện tích đất thửa số 496, tờ bản đồ số 1 tại xã Thượng Đạt từ năm 1999, sau khi anh Nguyệt và chị Hảo kết hôn. Điều này cũng đã được Ông Đỗ Văn Tô là anh em trong họ với anh Nguyệt, ông Nguyễn Văn Giới và một số thợ khác đã xây nhà và công trình phụ cho hai vợ chồng năm 1999 xác nhận tại các Biên bản lấy lời khai.

– Căn cứ theo lời khai của ông Nguyễn Văn N – cán bộ địa chính xã Thượng Đạt tại Biên bản xác minh ngày 09/03/2016, tại thời điểm bà Thoa mua thửa đất từ UBND xã Thượng Đạt, thửa đất đó là thùng vũng sâu, chưa được san lấp bằng phẳng như hiện tại.

Căn cứ theo lời khai của ông Đỗ Văn Tạo, hàng xóm của anh Nguyệt chị Hảo, tại Biên bản lấy lời khai ngày 09/03/2016, tại thời điểm năm 2002, chị Nguyệt và anh Hảo đã ở trên thửa đất được một thời gian. Khi đó diện tích thùng vũng chiếm khoảng ¾ thửa đất, ông Tạo đã giúp phun bùn bồi đắp và đến năm 2004 có thấy hai vợ chồng tiếp tục đắp thêm cho thửa đất thùng vũng này. Như vậy, chị Hảo cũng có đóng góp trong sự tôn tạo, cải thiện giá trị sử dụng của thửa đất.

Do đó, cần phải xác định, quyền sử dụng đối với thửa đất này là tài sản chung của hai vợ chồng anh Nguyệt chị Hảo, chứ không phải tài sản của bố mẹ anh Nguyệt.

Chủ tọa

 

Mời Luật sư ngồi

Vị luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn có ý kiến đối đáp tranh luận gì với quan điểm của luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn không?

  LS BĐ Đức
Thưa HĐXX, tôi xin được đưa ra các ý kiến đối đáp đối với luật sư bên nguyên đơn như sau:Thứ nhất, luật sư bên nguyên đơn cho rằng: Khi hai vợ chồng anh Nguyệt chị Hảo ly thân, anh Nguyệt thường ngăn cản không cho chị Hảo gặp cháu Đức Anh, nếu chị Hảo gặp cháu, anh Nguyệt sẽ đánh đập cháu. Đây là thông tin không chính xác, thông tin từ ông Tư – cán bộ tư pháp không có căn cứ. Tôi xin nhấn mạnh 1 điều là ông Tư không ở gần nhà của thân chủ tôi cũng như không tận mắt chứng kiến sự việc mà chỉ nghe đồn thổi. Tôi đề nghị luật sư nguyên đơn xuất trình chứng cứ chứng minh tính chính xác của biên bản lấy lời khai tại bút lục số 73, 74 mà luật sư bên nguyên đơn dẫn chứng ra để cáo buộc thân chủ tôi. Nếu không tôi đề nghị Quý Tòa xem xét những lời cáo buộc của Luật sư bên nguyên đơn đối với thân chủ tôi. Đây là sự vu khống trắng trợn, ảnh hưởng tới uy tín, danh dự và nhân phẩm của thân chủ tôi. Không có luật pháp nào cho phép được đánh giá, quy tội 1 người qua lời đồn thì mà không có một chứng cứ thực. Hơn nữa, cháu Đức Anh dù mới 7 tuổi nhưng đã tự tay viết đơn đề nghị có nguyện vọng ở với bố (bút lục số 32). Thử hỏi nếu ở với 1 người bố thường xuyên đánh đập, rượu chè và nếu cháu Đức Anh thực sự yêu mẹ, mong muốn được về ở với mẹ như lời luật sư nguyên đơn nói thì cháu có làm đơn ở với bố được không?Thứ hai, đối với nguồn gốc đất, tôi cũng xin khẳng định lại rằng nguồn gốc đất trước đây là do bố mẹ anh Nguyệt và các anh em của anh Nguyệt góp tiền mua đất năm 1994 khi anh Nguyệt và chị Hảo chưa cưới. Điều này các nhân chứng cũng đã khẳng định lại và chị Hảo cũng xác nhận đất trước đây là của gia đình anh Nguyệt và chị Hảo không đóng góp một khoản tiền nào để mua mảnh đất nói trên (theo bút lục số 62, 109, 116) và không có văn bản nào thể hiện việc bố mẹ anh Nguyệt tặng cho thửa đất đó.Do đó, đối với ý kiến của Luật sư về việc áp dụng án lệ 03, chúng tôi xin khẳng định rằng không thể áp dụng án lệ 03 trong trường hợp này bởi:+ Án lệ 03 áp dụng đối với trường hợp đất thuộc quyền sử dụng của riêng bố mẹ.+ Trong vụ án này, như đã nói ở trên mảnh đất thuộc quyền sử dụng chung của ông Cang, bà Thoa, ông Quyết và ông Chuyền vì nguồn gốc đất là do bố mẹ và các anh em của anh Nguyệt cùng góp tiền mua theo lời khai hôm nay cũng như trong các Bút lục số 81, 82, 84, 93, 100 cũng như tại bút lục số 62, 109, 116, Nguyên đơn đã thừa nhận rằng: Nguồn gốc của thửa đất này trước đây là do gia đình chồng mua.Vì vậy, không thể xác định đây là tài sản chung của bố mẹ để lại cho con để xây nhà theo án lệ 03. Việc UBND huyện Nam Sách (nay là thành phố Hải Dương) cấp GCN QSDĐ cho anh Nguyệt, chị Hảo là không đúng quy định pháp luật.
LSNĐ

 

Đối với ý kiến của Luật sư bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bị đơn liên quan đến việc cháu Đức Anh viết đơn muốn được ở với bố và phân chia tài sản chung trong việc không áp dụng án lệ 03, tôi hoàn toàn không đồng ý với quan điểm này, bởi lẽ,

Thứ nhất: Việc cháu Đức Anh viết lại Đơn đề nghị mong muốn được ở với bố vì cháu sợ ở với mẹ sẽ không được đi học không phải là căn cứ chứng minh cho việc anh Nguyệt không có hành vi bạo lực. Thêm vào đó, tại Đơn đề nghị ở bút lục số 31 và tại biên bản lấy lời khai của Quý tòa ngày 5/7/2016 có sự chứng kiến của bà Nguyễn Thị Thoa là bà nội của cháu, Cháu Đức Anh đều xin được ở với mẹ là chị Hoàng Thị Hảo. Do vậy cần áp dụng quy định tại Khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân gia đình 2014 “Nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.” khi xem xét việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con để chị Hảo là người nuôi dưỡng, chăm sóc cháu Đức Anh sau khi ly hôn.

Thứ hai: Việc áp dụng Án lệ trong trường hợp này là hoàn toàn phù hợp với quy định pháp luật và thực tế sự việc.

Tôi xin tóm lược nội dung án lệ 03 như sau: Trường hợp cha mẹ đã cho vợ chồng người con một diện tích đất và vợ chồng người con đã xây dựng, nhà kiên cố trên diện tích đất đó để làm nơi ở, khi vợ chồng người con xây dựng nhà thì cha mẹ và những người khác trong gia đình không có ý kiến phản đối gì; vợ chồng người con đã sử dụng nhà, đất liên tục, công khai, ổn định và đã tiến hành việc kê khai đất, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì phải xác định vợ chồng người con đã được tặng cho quyền sử dụng đất.”

Trong trường hợp này, thửa đất 496 được UBND huyện Nam Sách xét duyệt và cấp đất cho thu tiền cho các hộ gia đình mà có từ ba cặp vợ chồng cùng ở trong một hộ gia đình. Tại thời điểm đó, hộ gia đình bà Thoa ông Cang có ba cặp vợ chồng đang cùng sinh sống và bà Thoa ông Cang vẫn đang là chủ hộ. Do vậy được cấp đất theo chính sách. Tại thời điểm cấp đất, số tiền mặc dù là do anh Quyết và anh Chuyển và ông Cang bà Thoa đóng góp, tuy nhiên, bà Thoa lại là chủ hộ, là người đi nộp, và trước khi thống nhất cho vợ chồng anh Nguyệt, chị Hảo ra ở riêng trên đất, ông Cang bà Thoa đã cho vợ chồng anh Quyết và anh Chuyển ở lại trên thửa đất của ông bà. Cả gia đình cùng thống nhất như vậy coi như mỗi người đều được một phần của bố mẹ cho tránh tình trạng anh em tranh chấp nhau. Điều này được thể hiện tại biên bản lấy lời khai của anh Quyết và anh Chuyển ngày 21/3/2016 và ngày 18/3/2016 tại bút lục số 81, 82, 83.

Bên cạnh đó, bản chất của sự việc này liên quan đến việc xác định cha mẹ có biết và phản đối với việc kê khai, cấp Giấy chứng nhận QSDĐ cho vợ chồng người con hay không, chứ không nhằm vào việc xác định vào thời điểm nào cha mẹ được biết.

Trong việc cấp Giấy chứng nhận QSDĐ cho vợ chồng anh Nguyệt chị Hảo, cần phải khẳng định, UBND thành phố Hải Dương đã thực hiện đầy đủ trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật liên quan đến việc cấp GCNQSDĐ cho 30 hộ dân, trong đó có gia đình chị Hảo. Trong đó, việc thông báo công khai, niêm yết tại trụ sở UBND là bắt buộc theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 135 Nghị định 181/2004:

2. Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được quy định như sau:
a) Ủy ban nhân dân xã, thị trấn có trách nhiệm thẩm tra, xác nhận vào đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất về tình trạng tranh chấp đất đai đối với thửa đất; trường hợp người đang sử dụng đất không có giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai thì thẩm tra, xác nhận về nguồn gốc và thời điểm sử dụng đất, tình trạng tranh chấp đất đai đối với thửa đất, sự phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt; công bố công khai danh sách các trường hợp đủ điều kiện và không đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã, thị trấn trong thời gian mười lăm (15) ngày; xem xét các ý kiến đóng góp đối với các trường hợp xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất…

Do đó, phải khẳng định lại việc bà Thoa và gia đình đã biết về việc cấp GCNQSDĐ cho vợ chồng chị Hảo trong quá trình thực hiện, cũng như sau khi anh Nguyệt nhận được GCNQSDĐ, tuy nhiên hoàn toàn không có ý kiến phản đối, khiếu nại, khiếu kiện liên quan. Từ đó, việc áp dụng án lệ 03 là hoàn toàn phù hợp đối với việc giải quyết tranh chấp liên quan đến tài sản chung của chị Hảo và anh Nguyệt trong vụ án này

Chủ tọa + Mời Luật sư ngồi
+ Người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Văn J có ý kiến đối đáp tranh luận gì với quan điểm của các vị luật sư không?
Nguyễn Văn J +Thưa HĐXX, tôi bảo lưu quan điểm của mình, không có ý kiến tranh luận gì thêm.
Chủ tọa + Các vị Luật sư của nguyên đơn, bị đơn còn ý kiến đối đáp tranh luận gì thêm không?
LS G Lần lượt trả lời
LS I – Thưa HĐXX, tôi không có ý kiến tranh luận gì thêm.
Chủ tọa – Các đương sự có ý kiến bổ sung gì không?

 

Các đương sự Nguyên đơn, Bị đơn, Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan lần lượt trả lời
(đứng dậy và trả lời lần lượt)Thưa HĐXX tôi không có ý kiến gì thêm.
Chủ tọa – Không ai có ý kiến đối đáp gì thêm, mời vị đại diện VKS phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án.

 

KSV Thưa HĐXX
Thưa các vị có mặt tại phiên tòa
Sau đây đại diện cho VKS tôi xin phát biểu như sau:VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TP HẢI DƯƠNG
Số: 123/DS-STCỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Hải Dương, ngày … tháng … năm 2017BÀI PHÁT BIỂUCủa KSV tại phiên tòa sơ thẩm v/v giải quyết vụ án ly hôn+ Căn cứ Điều 6 và Điều 27 Luật Tổ chức VKSND 2014;+ Quyết định số 73/2017/QĐST-DS của TAND thành phố Hải Dương ngày 03/08/2017 v/v đưa vụ án số 20/2016/QĐST-DS ra xét xử;

Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, thông qua việc kiểm sát quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên tòa ngày hôm nay, VKSND thành phố Hải Dương có ý kiến như sau:

1. Về việc tuân thủ pháp luật:

1.1. Việc tuân thủ pháp luật của Thẩm phán:

Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán được phân công đã thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ và quyền hạn được quy định theo Điều 48 BLTTDS 2015.

+ Về việc thụ lý vụ án: Tranh chấp trong vụ án này liên quan đến hôn nhân gia đình thuộc thẩm quyền của Tòa án theo Điều 28 BLTTDS 2015. Cả nguyên đơn và bị đơn đều cư trú tại xã Thượng Đạt, TP Hải Dương. Do đó, TAND TP Hải Dương đã xác định đúng quan hệ tranh chấp và thụ lý vụ án đúng thẩm quyền theo Điều 28, Điều 35 BLTTDS 2015. Sau khi thụ lý vụ án, thẩm phán đã thông báo về việc thụ lý và gửi thông báo theo đúng thời hạn, đúng quy định tại Điều 196 BLTTDS 2015.

Thẩm phán đã xác định đúng mối quan hệ và tư cách pháp lý của những người tham gia tố tụng.

+ Về việc xác minh, thu thập chứng cứ: Thẩm phán đã cho tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc, giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ theo đúng quy định tại Điều 209, Điều 210, Điều 211 BLTTDS 2015.

+ Về việc hòa giải: Tòa án đã tiến hành hòa giải theo quy định tại Điều 205 BLTTDS 2015 và đã thông báo việc hòa giải tới các đương sự. Thẩm phán đã lập biên bản về việc hòa giải không thành theo quy định tại Điều 211 BLTTDS 2015.

+ Về thời hạn chuẩn bị xét xử: Vụ án được thụ lý ngày 06/01/2016, và quyết định đưa ra xét xử vào ngày 03/08/2017.

Quyết định đưa ra xét xử đã được ban hành đúng theo quy định tại Điều 220 BLTTDS 2015.

Việc gửi hồ sơ vụ án, các văn bản tố tụng cho VKS cũng như tống đạt cho các đương sự được thực hiện đầy đủ theo quy định của pháp luật.

1.2. Việc tuân thủ pháp luật của HĐXX:

Tại phiên tòa hôm nay, thành phần HĐXX đúng như Quyết định đưa vụ án ra xét xử, được các đương sự chấp nhận và không có yêu cầu thay đổi nào.

Quá trình xét xử tại phiên tòa hôm nay được tiến hành theo đúng trình tự, thủ tục được quy định tại BLTTDS 2015 và các văn bản hướng dẫn.

1.3. Việc tuân thủ pháp luật của Thư ký phiên tòa:

Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng nhiệm vụ theo quy định tại Điều 51 BLTTDS 2015.

1.4. Việc tuân thủ pháp luật của những người tham gia tố tụng:

Trong quá trình giải quyết vụ án, những người tham gia tố tụng khác đều thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ theo các điều 70, 71, 72, 73, 76, 78 BLTTDS 2015.

Việc vắng mặt của những người tham gia tố tụng là hợp pháp.

2. Quan điểm giải quyết vụ án:

Về quan hệ hôn nhân:

Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các quy định tại Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 và các văn bản hướng dẫn để chấp thuận yêu cầu ly hôn của chị Hoàng Thị Hảo và anh Nguyễn Văn Nguyệt.

Về con chung:

Hiện nay, cháu Nguyễn Thị Nhi 17 tuổi, cháu Nguyễn Đức Anh 10 tuổi. Do đó, căn cứ theo Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, VKS đề nghị HĐXX căn cứ vào nguyện vọng của các cháu và tình hình thực tế của các bên để quyết định người nuôi dưỡng các cháu.

Về tài sản chung

Thứ nhất, đối với diện tích đất do nguyên đơn, bị đơn sử dụng chung trong quá trình hôn nhân: Thửa đất này đã được cấp GCNQSDĐ cho hai vợ chồng vào năm 2005, từ đó đến nay vợ chồng sử dụng ổn định, không có bất kỳ tranh chấp nào. Do đó, căn cứ theo án lệ số 03/2016/AL, có thể xác định QSDĐ đối với 216m² đất thửa số 496, tờ bản đồ số 01 tại xã Thượng Đạt, TP Hải Dương là tài sản chung của vợ chồng chị Hảo và anh Nguyệt.

Thứ hai, đối với các tài sản trên đất: Các bên đã xác định đây là tài sản chung của vợ chồng chị Hảo và anh Nguyệt.

Do đó, VKS đề nghị HĐXX chia tài sản chung của vợ chồng chị Hảo và anh Nguyệt theo nguyên tắc tại điều 59 Luật HNGĐ 2014 và án lệ số 03/2016/AL.

Trên đây, là ý kiến của VKS về việc kiểm sát và giải quyết vụ án của TAND thành phố Hải Dương tại phiên tòa hôm nay.

Đề nghị HĐXX tiếp tục làm việc.

T.L VIỆN TRƯỞNG
KIỂM SÁT VIÊN
Nguyễn Văn E

Chủ tọa Mời vị đại diện Viện kiểm sát ngồi.
Thay mặt Hội đồng xét xử tôi tuyên bố kết thúc phần tranh luận, mời Hội đồng xét xử vào phòng nghị án.

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *